Câu cuối cùng của cuốn sách này tôi viết: “Giã biệt làng Nguyệt Lãng yêu thương, ngày 4 tháng 8 năm 1964, trong một ngày đẹp trời, tại Ga Hàng Cỏ Hà Nội, tôi lên tàu liên vận sang Ba Lan du học”. Tôi xa làng kể từ ngày ấy. Tuy nhiên, đó chỉ là xa về khoảng cách địa lý. Tôi xa làng, nhưng ngày nào làng cũng ở trong tôi. Làng ở trong tôi khi tôi thức, làng ở trong tôi ngay cả khi tôi ngủ.
Nhiều đêm tôi chiêm bao thấy mình đang ở làng, đang chơi bời nhảy múa với các bạn cùng trang lứa, đang làm xã viên hợp tác xã nông nghiệp, đang gánh phân, nhổ mạ, đang bắt cua, bắt ốc, bắt ếch, kiếm cá, đang chăn bò trên cánh đồng làng, đang cắp sách cuốc bộ đến trường, đang xem phim “Bạch Mao Nữ” tại bãi chiếu bóng ngoài trời…
Nhiều đêm tôi chiêm bao thấy bố, thấy mẹ, thấy các em tôi, thấy bà con làng xóm đang sinh sống trong cảnh thanh bình, giàu tình làng nghĩa xóm, hồn nhiên, lạc quan và yêu đời “mà ta ngỡ chỉ có thể tìm thấy ở nước Thiên Đàng” (lời nhà thơ Trần Đăng Khoa). Những ký ức về làng chất chồng trong đầu tôi năm này qua năm khác.
Nhà văn Đỗ Ngọc Yên đã có lý khi anh bảo rằng:“Lê Bá Thự vừa mới xuất bản cuốn “Tôi và làng tôi”, dưới dạng tản văn, như một khế ước văn hóa làng mà ông từng mang theo hai phần ba thế kỷ”. Khi viết cuốn sách này tôi luôn luôn ý thức một điều rằng, làng Nguyệt Lãng trong sách của tôi phải y chang làng Nguyệt Lãng năm xưa, Lê Bá Thự trong cuốn sách này phải y chang Lê Bá Thự năm xưa. Trung thực là bút pháp của tôi. Không tô son, không trát phấn. Hy vọng bạn đọc không khó nhận ra giọng điệu Lê Bá Thự,“cái tôi” Lê Bá Thự trong cuốn sách này.
Nhà văn Lê Bá Thự.
Bản sắc, tính cách xứ Thanh trong “Tôi và làng tôi” cũng được biểu đạt rất rõ nét từ đầu đến cuối, mà phương ngữ, thổ ngữ, tiếng địa phương hay giọng Thanh Hóa sử dụng trong sách là một minh chứng. Tôi chủ trương, tác phẩm tôi viết phải hóm hỉnh, dí dỏm, trào lộng và nhẹ nhàng để người đọc được thoải mái, vui vẻ cùng tôi thực hiện cuộc du ngoạn qua từng trang sách.
Đọc “Tôi và làng tôi” bạn cũng dễ nhận ra, kể chuyện ngày xưa nhưng tôi thường liên hệ với những chuyện bây giờ, chuyện ngày nay. Điều này được thể hiện rõ nét trong các câu chuyện “Xem phim Bạch Mao Nữ”, “Bụi tre trước nhà và đôi chim chào mào”, “Tôi làm xã viên hợp tác xã nông nghiệp”, “Chợ Tết cầu may”, “Trường làng”, “Trường huyện”, “Trường tỉnh”vv…
Tôi am hiểu làng mình đến từng chân tơ kẽ tóc, Tôi thuộc làng mình như lòng bàn tay. Hồi sống ở làng tôi lam lũ thật sự, tôi khổ thật sự, khổ đến mức không còn chỗ cho khổ hơn được nữa. Dẫu vậy, hồi đó tôi vui, tôi sướng thật lòng và tôi tin thật lòng, lắm khi tin như điếu đổ, dẫu “có phần bồng bột và nhuốm mầu ảo tưởng”, như nhà thơ Trần Đăng Khoa đã nói. Tôi và các bạn cùng thế hệ thời đó là như vậy.
Tôi chia sẻ với phát biểu của nhà thơ Trần Đăng Khoa khi anh nói: “Tuổi thơ của Lê Bá Thự cũng như tuổi thơ của hầu hết những người dân miền Bắc Việt Nam vào những năm 50, 60. Đó là bầu khí quyển trong vắt “Dân Liên Xô vui hát trên đồng hoa”. Nhìn đâu cũng thấy hoa. Đến đâu cũng có tiếng hát. Dù đời sống thực lại vô cùng đói rét và bần hàn. Khổ nhưng mà vui. Một niềm vui có phần bồng bột và nhuốm màu ảo tưởng. Đọc Lê Bá Thự, ta thấy thú vị cũng vì thế. Nhờ có những trang viết rất chân thực và sinh động của anh mà ta hiểu được một thời”.
Tuy mới ấn hành, nhưng những dư âm đầu tiên về cuốn sách khiến tôi lấy làm mừng.
Nhà thơ Văn Đắc chia sẻ:
“Tôi và làng tôi” là một tác phẩm tư liệu về làng quê Việt Nam một thời, một bài thơ văn xuôi dài”. Nhà lí luận phê bình văn học Vũ Nho viết: “Bằng một giọng kể chân mộc, hóm hỉnh và hài hước, nhà văn Lê Bá Thự đã vẽ lên trong trí tưởng tượng của bạn đọc chú bé Thự với tất cả những điều hay (tất nhiên có cả điều dở nhưng ít) của một tuổi thơ lam lũ ở làng quê nhưng cũng đầy những niềm vui hồn nhiên, trong trẻo. Chú bé cùng với cha mẹ, những người làng Nguyệt Lãng được kể, được tả trở thành một bảo tàng về tuổi thơ ở làng quê. Tuổi thơ và hồn làng sẽ còn mãi trong kí ức bạn đọc”.
Nhà lí luận phê bình văn học Nguyễn Thanh Tâm đã viết những lời bình sâu sắc mang tầm vĩ mô: “...Tôi và làng tôi, như thế có thể được xem như một phác họa chân dung Việt Nam truyền thống, hình thành trên cơ tầng văn hóa làng xã và văn minh lúa nước. Những ký ức gần dẫn dắt ký ức xa, những hoài niệm cá nhân dẫn ta về với hoài niệm của cộng đồng dân tộc. Nơi đó, bất giác ta nhận ra tiểu sử và căn tính của những gì đang diễn ra ở hiện tại… Lê Bá Thự đã gợi lên ký ức của cả một cộng đồng, một dân tộc, của nền văn minh lúa nước và văn hóa làng xã”.
Thời kỳ tôi ở làng là thời kỳ tôi sống lam lũ, rất hồn nhiên, rất “tự nhiên” và rất “làng”. Sau này, mỗi lần về thăm quê, tôi thường thích kể lại với bố mẹ tôi, với các em tôi và các cháu tôi, những câu chuyện cũ mà tôi là người trong cuộc, những câu chuyện cũ không bao giờ cũ đối với tôi.