Đó là những thiếu nữ có nhan sắc và nổi tiếng, từng làm mê đắm biết bao trái tim của các quý ông học hàm học vị cao, công tử hào hoa, văn nhân - ký giả đa tình... Trong số này, "bông hồng may mắn" nhất là cô Bính Hàng Đẫy, còn cô Phượng Hàng Ngang đã phải chịu đúng phận "Hồng nhan bạc mệnh".
Hồng nhan bạc mệnh
Hà Nội xưa từng xôn xao về vụ “cô Phượng Hàng Ngang”. Không chỉ báo chí, người ta còn viết sách, dựng kịch, làm thơ về vụ thảm tình này. Kẻ chê cô Phượng là dâm loạn, nhẫn tâm bỏ lại chồng con, bỏ cuộc sống vinh hoa phú quý để đi theo trai. Người thì khen cô dám đạp lên lề thói đạo đức phong kiến, đi theo tiếng gọi thổn thức của con tim. Người Hoa kiều ở Hàng Ngang nói rằng, cặp lông mày của cô “yên my" (lông mày như mây khói), cặp mắt “bán thụy phượng hoàng“ (con phượng hoàng nửa thức nửa ngủ, nghĩa là mắt mơ màng say đắm.
Tứ đại mỹ nhân.
Cô Phượng ăn mặc rất nền, khi thì chít khăn nhiễu tam giang, khi thì chít khăn nhung đen, đuôi gà vắt qua mái tóc. Cô hay mặc yếm hoa hiên, quần lĩnh tía cạp điều thắt lưng quan lục. Tất cả những màu sắc ấy ánh lên qua chiếc áo dài vải phin trắng may sát vào thân hình nở nang”. Và đã có không ít văn nhân - ký giả đương thời khi được diện kiến cô Phượng đã phải thốt lên: “Tây Thi khiếp vía, Hằng Nga giật mình”.
Nhiều thanh niên, nhà ngay sát chỗ làm, nhưng hàng ngày vẫn bốn lần đi về theo đường vòng để qua phố Hàng Ngang, để được ngắm cô Phượng từ xa. Nếu hôm nào không một lần được thấy cô, họ thấy bồn chồn, bứt rứt, đứng ngồi không yên. Khi tàu điện chạy qua phố Hàng Ngang, không ai bảo ai, tất cả hành khách đều hướng mắt về phía dãy nhà mang số chẵn, nơi có một mỹ nhân góp phần làm cho vẻ đẹp Hà Nội thêm rực rỡ.
Nhiều người "thèm" muốn như vậy, nhưng Phượng lại lấy chồng - hạng công tử “tốt mã giẻ cùi” ở Hàng Ngang. Chồng cô suốt ngày rong chơi, chỉ coi vợ như một thứ đồ đắt tiền, xinh xinh, chỉ để ngắm nghía, canh chừng, chứ không phải để tâm tình, cùng nhau vươn tới những khát vọng xa xôi. Thậm chí, vì nghiện cờ bạc rượu chè và có tính ghen tuông, chồng thường đánh cô. Cô sớm hiểu ra thân phận người phụ nữ lúc đó nên đã phản kháng bằng cách bỏ chồng đi theo tiếng gọi của một anh chàng nhà báo trẻ đầy tài hoa, tên là Hoàng Hồ, bút danh Hoàng Tích Chu, con trai một ông Huyện ở Bắc Ninh. Hai người yêu nhau say đắm, thực là một đôi trai tài gái sắc.
Vào khoảng cuối năm 1927, cả Hà Nội chấn động trước tin cô Phượng mất tích. Mãi sau này, mọi người mới biết cô Phượng đã theo Hoàng Tích Chu vào Sài Gòn. Cô đâu có biết rằng đó là một chuyến đi định mệnh. Hoàng Tích Chu đã quyết chí sang Pháp học nghề làm báo và hoàn cảnh không cho phép Chu đem theo người tình. Lúc đó, Chu bảo với Phượng về Bắc gặp cha, đem theo một bức thư cầu khẩn rất cảm động để ông nhận Phượng làm con dâu trong khi đợi Chu du học về. Vốn là người có quan niệm cổ về lễ giáo, ông Huyện cho là gia đình Phượng không môn đăng hộ đối với gia đình ông, nên sai người đưa Phượng về xin lỗi chồng để trở lại, nhưng bị từ chối. Thế là cô Phượng đành phải làm nghề buôn bán nuôi thân.
Sau nhiều lần vào Nam ra Bắc, đôi khi cô phải nương tựa vào người khác để tồn tại. Có người bạn giới thiệu Phượng cho một người tên Lưu - cũng là người phong nhã lịch thiệp. Nhưng Lưu đã có vợ nên phải thuê một căn nhà nhỏ bên Gia Lâm cho Phượng ở. Lưu đã vạch kế hoạch để hai người trốn sang Hong Kong nhưng kế hoạch không thành. Phượng phải về nương náu tại một ngôi chùa ở Hưng Yên ý muốn đi tu, nhưng vì nghiệp trần vẫn nặng, cô vẫn phải chịu đựng kiếp hồng nhan.
Về sau, có người đàn ông tên Bách làm Tham tán ở tòa Sứ đến vãn cảnh chùa gặp Phượng. Bách mê mẩn vẻ đẹp mặt hoa da phấn của Phượng bèn mượn người đến đánh tiếng với Phượng và xin với sư bà cho Phượng về làm vợ lẽ. Vợ cả của Bách đến đón Phượng về làm chị làm em rất quý hóa ngọt ngào. Ít lâu sau, Tham tán Bách được chuyển đi Lai Châu. Vợ cả lại cho Bách và Phượng đi trước, còn mình sẽ lên sau. Ai ngờ bà cả đã ngầm sai người đầu độc Phượng bằng một loại thuốc khiến cô hóa điên lúc tỉnh lúc mê, lúc cười lúc khóc, gầy rộc đi. Tham tán Bách đành sai người đưa cô về Chợ Bờ (Hòa Bình), nhưng sau đó Phượng về lại Gia Lâm tìm đến bà hàng xóm cũ, trong người chỉ còn có 15 đồng bạc. Bà hàng xóm tốt bụng nhưng nhà quá nghèo trông nom cô như con đẻ. Bệnh ngày một nặng, bà đành phải đưa cô vào nhà thương làm phúc. Một tuần sau, cô Phượng qua đời.
Đám tang Phượng chỉ có một người tình cũ rủ lòng thương, khắc cho cô một tấm bia đề: "Mộ người bạc mệnh Vương Thị Phượng". Mộ của cô đối diện với cổng chính Bệnh viện Bạch Mai. Đường thẳng từ ngôi mộ đến cổng Bệnh viện chừng 150 m.
Bông hồng may mắn trong 'tứ mỹ'
Giai nhân Hà thành Đỗ Thị Bính (sinh năm 1915) là người may mắn hơn cả trong "tứ mỹ". Cô sống ở ngôi nhà số 37 Hàng Đẫy, bây giờ đổi tên thành số nhà 67, phố Nguyễn Thái Học.
Đỗ Thị Bính là một trong 19 người con của nhà tư sản Đỗ Lợi, nhà thầu khoán thuộc hàng lớn nhất Hà Nội trước những năm 1930 và là một trong những thành viên của dòng họ Đỗ "Bá Già" (thôn Tiên Lữ, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc). Vì có thói quen mặc đồ đen, giai nhân được nhà thơ đa tài Nguyễn Nhược Pháp thầm yêu trộm nhớ và đặt tên là “người đàn bà áo đen”. Thế nhưng, tuyệt nhiên hai người chưa một lần gặp mặt, dẫu rằng tình trong như đã… Và những vần thơ tuyệt vời trong tập “Ngày xưa” đã ra đời từ đó. Các bài thơ như “Sơn Tinh, Thủy Tinh”, “Tay ngà”, “Chùa Hương”… đều phảng phất bóng dáng giai nhân Đỗ Thị Bính. Người đẹp cũng hiểu được tình cảm của công tử Pháp, nhưng tình thì có, nhưng duyên thì không.
Bông hồng may mắn.
Nguyễn Nhược Pháp đã sớm ra đi ở tuổi 24 vì bệnh lao vào năm 1939. Sau khi Pháp mất được một năm, gia đình thuyết phục cô Bính lấy một chàng kỹ sư phong lưu mã thượng học ở Pháp về, tên Bùi Tường Viên - em trai út của luật sư nổi tiếng Bùi Tường Chiểu thời bấy giờ. 16 tuổi, Bùi Tường Viên sang Pháp du học về ngành silicat và là một kỹ sư của Việt Nam. Sau đó, Bùi Tường Viên giữ vai trò Hiệu trưởng trường Mỹ nghệ Đông Dương (tiền thân của Đại học Mỹ thuật công nghiệp Hà Nội). Năm 1992, người đẹp Đỗ Thị Bính qua đời, hưởng thọ 77 tuổi.
Theo lời của bà Bùi Thị Mai, con gái ruột của giai nhân Đỗ Thị Bính, mặc dù là người có vẻ đẹp nhất nhì Hà thành khi đó, thế nhưng mẹ bà không hề có tính kiêu sa của những tiểu thư khuê các. Trái lại, bà Bính nhất mực hòa đồng, giản dị và gần gũi với mọi người. Thuở ấy, người đẹp cũng ý thức được nhan sắc của mình, cũng hiểu được vẻ đẹp ấy đã làm mê đắm biết bao nhiêu trái tim đắm đuối. Thế nhưng, ý thức của một người có học vấn, lại được sống trong một gia đình khoa bảng nền nếp, được dạy dỗ tam tòng tứ đức, công dung ngôn hạnh ngay từ nhỏ..., cách ứng xử của người đẹp cũng rất mực ý tứ. Giai nhân Bính không coi vẻ đẹp của mình như là một thứ "vũ khí"... Đấy cũng là một trong những điều làm nên nét thanh lịch của người Tràng An.
Ngoài hai người đẹp trên, cô Nga Hàng Gai cũng sắc nước hương trời. Riêng cô Síu, con gái nhà văn Lý Ngọc Hưng, sau năm 1954 thì biệt tăm biệt tích.