Chiều 12.11, tại Hà Nội đã diễn ra hội thảo “Asen trong nước ngầm ở đồng bằng sông Hồng, hiện trạng và công nghệ xử lý ở quy mô phân tán”. Hội thảo do Viện Công nghệ Môi trường (IET) thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Việt Nam và Đại học Công nghệ Sydney (UTS) đồng tổ chức.
Theo thống kê của Bộ Y tế năm 2017, ở Việt Nam có 17 triệu người sử dụng nước ngầm bị nhiễm asen, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe. Cả nước có hơn 4 triệu giếng khoan, trong đó nhiều giếng có nồng độ asen cao hơn 20 - 50 lần giới hạn cho phép (0,01mg/l).
Ở đồng bằng sông Hồng, theo đánh giá của nhóm nghiên cứu của Thuỵ Sĩ kết hợp với Đại học Khoa học tự nhiên xuất bản năm 2011, khoảng 1 triệu người phải dùng nước nhiễm asen (cao hơn tiêu chuẩn Việt Nam và tiêu chuẩn của Tổ chức Y tê Thế giới).
Ông Lương Văn Anh, Giám đốc Trung tâm Quốc gia Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn, cho biết, theo đánh giá của UNICEF, khu vực phía Nam Hà Nội, nước ngầm bị nhiễm asen rất nặng như Hoàng Mai, Mỹ Đình, Ứng Hòa, Thường Tín, Đan Phượng, Thanh Oai, đặc biệt Thanh Trì có hàm lượng asen trong nước ngầm cao nhất. Tình trạng này diễn ra nghiêm trọng ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng, những tỉnh mà công trình nước sạch đạt chuẩn Bộ Y tế rất thấp.
Người dân và chính quyền các địa phương đã có một số giải pháp như sử dụng bể lọc cát, cải tạo đường ống cấp nước sạch, tuy nhiên tình trạng nước ngầm nhiễm asen vẫn chưa được giải quyết triệt để.
Dự án do UTS phối hợp với IET và Đại học Khoa học Tự nhiên (HUS) thực hiện từ tháng 4.2017 đến tháng 1.2019, với sự tài trợ của Bộ Ngoại giao và Thương mại Australia qua chương trình InnovationXchange, đã chế tạo được hệ thống lọc mới với vật liệu lọc asen trong nước ngầm từ các vật liệu địa phương đảm bảo loại bỏ được asen trong nước xuống dưới 0.01mg/l, đạt tiêu chuẩn chất lượng nước ăn uống QCVN, vật liệu lọc lấy từ nguyên liệu trong nước, với giá thành rẻ, phù hợp với người dân các địa bàn nghèo, thân thiện với môi trường. Dự án đã triển khai hệ thống xử lý thử nghiệm tại xã Hoàng Tây, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam, và xã Hồng Thái, huyện Phú Xuyên, Hà Nội.
Từ 30 vật liệu lọc thử nghiệm trong phòng thí nghiệm, các nhà khoa học hai nước đã chọn ra 3 vật liệu tiềm năng nhất trên cơ sở hiệu quả xử lý asen và giá thành. "Chúng tôi cho rằng cần vật liệu lọc asen sản xuất được ở địa phương với giá thành rẻ và được ứng dụng trong thiết bị lọc có vận hành và bảo dưỡng đơn giản, phù hợp với điều kiện nông thôn ở Việt Nam" - Tiến sĩ Nguyễn Tiến Vinh thuộc UTS, đồng chủ trì dự án, cho biết.
Công nghệ đã chuyển giao cho công ty để chế tạo hệ thống xử lý asen trong nước ở quy mô phân tán, phù hợp với hộ gia đình (với giá khoảng 2 triệu đồng một tủ lọc gia đình) và các công trình công cộng địa phương như trường học, trạm y tế... Ngoài việc xử lý asen trong nước, hệ thống có thể xử lý các chất ô nhiễm khác như amoni, vi khuẩn, thông qua bổ sung các lõi lọc tương ứng.
Khảo sát chất lượng nước tại một số hộ dân xã Hoàng Tây, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam, vào tháng 6 và tháng 9 năm 2017 cho thấy, hàm lượng asen trong mẫu nước ngầm vào tháng 9, mùa mưa, dao động từ 0,029–0,189 mg/l, vào tháng 6, mùa khô lên tới 0,31–0,4mg/l. Chất lượng nước sau khi lọc qua bể lọc cát tại địa phương đo vào tháng 6, tháng 9 đều có hàm lượng asen lần lượt là 0.143–0.233 mg/l và 0,013–0,129 mg/l, cao hơn so với tiêu chuẩn quốc gia về chất lượng nước ăn uống (0,01mg/l).
Kết quả thử nghiệm của hệ lọc tại trường mầm non Hoàng Tây và hộ dân lần lượt sau 3 tháng và 1 tháng sử dụng cho thấy, hàm lượng As trong nước đi qua hệ thống lọc dao động lần lượt từ 0,002–0,005 mg/l và 0,001–0,004 mg/l thấp hơn so với tiêu chuẩn cho phép.
"Chúng tôi mong muốn chế tạo ra được thiết bị lọc phù hợp với điều kiện Việt Nam để người dân sử dụng loại bỏ asen khỏi nước, giảm tác động xấu của asen đến sức khoẻ người dân" - Giáo sư Vigneswaran thuộc UTS, đồng chủ trì dự án, phát biểu.