Lời nguyền đáng sợ của vị vua Lý treo cổ tự vẫn
Số phận long đong khiến Lý Huệ Tông phải chạy loạn từ tuổi 15 và trên hành trình đó, ông đã gặp mối lương duyên định mệnh với Trần Thị Dung, người ông đã hết lòng yêu thương và bảo vệ những cũng chính mối tình ấy đã dẫn đến sự tuyệt diệt của nhà Lý. Tương truyền, trước khi chết, vị vua cuối cùng của triều Lý có để lại lời nguyền cay nghiệt.
Ngay từ khi lên ngôi, Lý Huệ Tông đã chẳng có mấy thực quyền bởi quần thần chia thành nhiều phe phái xâu xé nhau và cuối cùng, quyền lực lớn nhất về tay nhà Trần, đứng đầu là ông anh vợ Trần Tự Khánh. Khánh mất, địa vị đó lọt vào tay em họ ông ta là Trần Thủ Độ.
Chỉ một năm sau khi nắm quyền, Thủ Độ đã ép Huệ Tông phong cho công chúa Chiêu Thánh mới 7 tuổi làm thái tử rồi nhường ngôi. Huệ Tông thành thái thượng hoàng, xuất gia đi tu ở chùa Bút Tháp, lấy pháp danh là Huệ Quang.
Có vẻ như Huệ Tông đã an phận với đời tu hành, nhưng hai năm sau, vào năm 1226, Trần Thủ Độ sợ lòng dân vẫn nhớ vua cũ nên để khỏi “đêm dài lắm mộng”, ông quyết định kết liễu sinh mạng Huệ Tông.
Một hôm Thủ Độ đến chùa tìm Huệ Tông, thấy ông đang nhổ cỏ liền nói: “Nhổ cỏ phải nhổ tận gốc”. Huệ Quang đại sư đáp: “Điều người nói, ta đã hiểu”, và sau đó treo cổ tự tử.
Bí ẩn lời nguyền đáng sợ của 2 vị vua bị “bức tử” chết trong lịch sử. Ảnh minh họa.
Tương truyền, trước khi chết, ông vua triều Lý có để lại lời nguyền: “Các ngươi đã cướp thiên hạ của ta, nay lại còn giết ta. Nay ta chết như thế nào, con cháu các ngươi sau này cũng bị như thế”.
Chuyện vua Lý nguyền rủa dòng họ Trần có lẽ chỉ do người sau thêu dệt, bởi trong những thời khắc hung hiểm như vậy, khó có ai làm chứng. Nhưng có một sự thật là kết thúc của dòng họ Trần sau đó gần 200 năm cũng có rất nhiều điểm tương đồng với kết cục của nhà Lý, nhất là cái chết của hai ông vua “cuối cùng”.
Liệu có phải là lời nguyền đã đúng?
Thứ nhất, vương triều của họ đều mất về tay ngoại thích – họ hàng của những người đàn bà được vua yêu dấu. Kẻ tiếm ngôi nhà Trần, Hồ Quý Ly, có hai người cô làm vợ vua Trần Minh Tông.
Đến đời Nghệ Tông, ông được tin dùng với quyền lực ngày một lớn, đến mức hầu như quần thần đều thấy rõ bụng dạ thoán đoạt, chỉ riêng Nghệ Tông vẫn mù quáng tin tưởng, giao hết quyền bính vào tay Quý Ly.
Sau này, Nghệ Tông nhường ngôi cho cháu là Trần Hiện (Trần Phế Đế), vị vua trẻ biết dã tâm của họ Hồ và có ý trừ bỏ, nhưng Quý Ly chỉ nói vài câu với thượng hoàng Nghệ Tông là Trần Hiện đã lập tức bị phế rồi giết chết.
Sau vụ đó, Thượng hoàng Nghệ Tông lập con trai mình, mới 11 tuổi, lên ngôi, là Trần Thuận Tông. Vị vua thiếu niên này được sắp đặt lấy con gái của Hồ Quý Ly, lập làm hoàng hậu.
Tay chân của họ Hồ nắm hết các chức vụ trọng yếu, và sau khi thượng hoàng Nghệ Tông mất thì ông ta chẳng còn kiêng nể gì nữa. Bên cạnh ông con rể hoàng đế ở tuổi thiếu niên, chính Quý Ly mới là ông vua thực sự.
Năm 20 tuổi, Thuận Tông bị ông bố vợ ép xuống chiếu nhường ngôi cho con trai mới 2 tuổi là thái tử An, với quyền nhiếp chính của Hồ Quý Ly. Tương tự Lý Huệ Tông, sau khi trở thành thái thượng hoàng, Thuận Tông bị ép đi tu ở đạo quán Ngọc Thanh, xung quanh có bao tay chân của họ Hồ giám sát.
Cũng như Trần Thủ Độ, Quý Ly cũng muốn nhổ cỏ tận gốc nên đã sai người đưa đến cho Thuận Tông một bài thơ, trong đó có câu: “Sao không sớm liệu đi/Để cho người nhọc sức?”. Thuận Tông uống thuốc độc nhưng không chết, bị tay chân của ông bố vợ tàn nhẫn thắt cổ, chết ở tuổi 21.
Đứa con của hai ông vua bị ép chết sau khi xuất gia này cũng đều mang số phận tốt thí. Lý Chiêu Hoàng vừa được đặt lên ngôi đã phải nhường ngai vàng cho họ Trần để làm hoàng hậu, sau đó bị giáng làm công chúa rồi bị chồng cũ gả cho bề tôi.
Còn con trai của Thuận Tông lên làm vua được hai năm đã bị ông ngoại cướp ngôi, giáng xuống làm Bảo Ninh Đại vương.