"Họ nói sẽ dạy cho chúng tôi một bài học. Vậy hãy để xem họ dạy thế nào. Chúng tôi không nhận bài học ấy và sẽ chiến đấu đánh đuổi họ về nước".
Sau 40 năm, ông Lê Công Phụng (nguyên Thứ trưởng Ngoại giao, từng giữ chức Bí thư thứ ba Đại sứ quán Việt Nam tại Bắc Kinh năm 1979) vẫn nhớ câu trả lời của lãnh đạo sứ quán trước câu hỏi của phóng viên quốc tế. Người này khi đó đã hỏi quan điểm của Hà Nội về việc Trung Quốc đòi "dạy cho Việt Nam một bài học" trong cuộc họp báo được tổ chức giữa lòng Bắc Kinh, ngày 18.2.1979 - một ngày sau khi hơn 600.000 quân Trung Quốc tràn sang biên giới Việt Nam.
Ông Lê Công Phụng. Ảnh: Viết Tuân
Sáng 17.2, vài chục phút sau khi quân Trung Quốc bắt đầu tràn qua biên giới, sứ quán bị an ninh vây chặt. Tất cả các đường liên lạc với bên ngoài bị cắt.
"Chúng tôi không bất ngờ khi Trung Quốc đánh Việt Nam, nhưng hơi bất ngờ về thời điểm cuộc chiến xảy ra.", ông Phụng nhớ lại giây phút nhận tin tức từ nhà gửi sang. Giây phút ấy, không ai lo lắng cho bản thân đang ở nơi nguy hiểm "giữa lòng địch" mà chỉ hướng về Tổ quốc. Ai cũng bồn chồn.
Sứ quán họp bàn lên phương án hành động. Tại cuộc họp, Đại sứ Nguyễn Trọng Vĩnh nhận định, rất ít khả năng Trung Quốc tấn công sứ quán bởi phải tuân thủ các công ước quốc tế về ngoại giao. Nhưng ông yêu cầu gấp rút triển khai hai nhiệm vụ "cốt tử" là bảo vệ cán bộ và tài liệu. Đồng thời, sứ quán phân công người trực chiến, canh gác ngày đêm. Cán bộ được yêu cầu hạn chế ra ngoài để đảm bảo an toàn. Nếu có việc cần thiết thì vẫn hoạt động bình thường nhưng hết sức thận trọng, không để an ninh Trung Quốc kiếm cớ gây sự.
Tuyên bố của Chính phủ Việt Nam về cuộc chiến tranh xâm lược của Trung Quốc trên báo Nhân dân ngày 18.2.1979.
Hôm sau, ông Phụng cùng lãnh đạo Đại sứ quán Việt Nam ở Bắc Kinh tổ chức họp báo lên án tội ác chiến tranh của Trung Quốc. Rất đông phóng viên báo chí, hãng thông tấn, cán bộ sứ quán các nước tham dự, trong đó có Nhân dân nhật báo và Tân Hoa xã.
"Trung Quốc ồ ạt đưa quân tấn công biên giới phía Bắc Việt Nam là hành động xâm lược", cán bộ ta đưa ra thông điệp trong buổi họp báo. "Việt Nam không gây hấn với Trung Quốc. Nhưng Trung Quốc đã đặt nhân dân Việt Nam vào thế buộc phải cầm súng chiến đấu. Việt Nam yêu cầu Trung Quốc sớm nhận ra sai lầm và rút quân, chấm dứt chiến tranh".
Cán bộ sứ quán đã nói với báo chí thế giới, rằng lịch sử của Việt Nam trải qua nhiều cuộc kháng chiến. Từ thời phong kiến, Trung Quốc đã nhiều lần xâm lược Việt Nam, nhưng đều bị đánh bại. Việt Nam không bao giờ gây hấn với nước láng giềng, nhưng khi bị xâm lược thì sẽ chiến đấu đến cùng để bảo vệ tổ quốc.
Những ngày sau đó, chính quyền Bắc Kinh gia tăng áp lực lên sứ quán Việt Nam khi xúi giục sinh viên một số nước châu Phi đến biểu tình, gây ồn ào trước cổng sứ quán. Ông Phụng được cử ra giải thích. Mất nhiều thời gian để ông thuyết phục các sinh viên Châu Phi rằng sự thật không phải như Trung Quốc tuyên truyền. Khi đó họ mới chịu ra về, thú nhận là chưa biết gì về cuộc chiến mà chỉ nghe người khác kêu gọi đi biểu tình.
Trong những ngày chiến tranh diễn ra trên biên giới, mọi trao đổi về trong nước và ra bên ngoài đều phải dùng tín hiệu Morse. Ông Phụng nói, đó là những ngày cả sứ quán sống trong tiếng "tạch tè" ngày đêm. "Sau thời gian đó, tôi bị sụt mấy cân", ông kể.
Trái ngược với tình cảnh bị bao vây, cắt liên lạc ấy, ở bên kia bán cầu, sứ quán Việt Nam tại Cuba hừng hực khí thế đoàn kết của Chính phủ và người dân nơi đây.
Ông Nguyễn Văn Đào, tùy viên Đại sứ quán Việt Nam tại Cuba năm 1979 nói: "Suốt cuộc đời làm ngoại giao, chưa khi nào tôi sống trong sự căng thẳng nhưng ngập tràn tình đoàn kết quốc tế như vậy".
Chiều tối 16.2.1979 theo giờ Cuba (sáng 17.2 giờ Việt Nam), ông Đào đang đi bên ngoài thì nhận được cuộc gọi trở về sứ quán gấp. "Họ đánh ta rồi", ông Trần Hữu Súy, Đại biện lâm thời sứ quán Việt Nam tại Cuba thông báo ngắn gọn khi bắt đầu cuộc họp lúc 10h đêm.
Ông Nguyễn Văn Đào. Ảnh: Viết Tuân
Sau đêm thức trắng, ông Đào ra cổng sứ quán đi phát tài liệu thì gặp "cảnh tượng không nói nên lời". Hàng nghìn người dân Cuba đứng kín các ngả đường quanh sứ quán. Đoàn người hô vang khẩu hiệu: "Đoàn kết với Việt Nam", "Phản đối Trung Quốc xâm lược"...
"Tôi cảm nhận rõ sự phẫn nộ của từng người dân Cuba, bởi họ cho rằng Trung Quốc tấn công Việt Nam là sự phản bội không thể tha thứ", ông Đào kể.
Chiều 21.2, tại Thủ đô La Habana, hàng chục nghìn người dân Cuba đã tuần hành.
Khi quân Trung Quốc nổ súng trên biên giới Việt Nam cũng là lúc cả đất nước Cuba sôi sục. Ông Bùi Ngọc Hải, thường trú Thông tấn xã Việt Nam tại Cuba ngày ấy thuật lại. Trên lễ đài ở trung tâm thành phố, bên cạnh quốc kỳ Việt Nam và Cuba là bức ảnh chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh khổ lớn, cùng câu nói nổi tiếng "Không có gì quý hơn độc lập, tự do".
Tại đây, Fidel Castro đã có bài hùng biện không chuẩn bị trước. Ông vẫn mặc bộ quân phục như thường thấy trong các sự kiện quan trọng, bước lên lễ đài trước sự tập trung của hàng chục nghìn người.
Bằng giọng hào sảng, Chủ tịch Cuba nói hành động xâm lược của Trung Quốc là sự phản bội. Nhà cầm quyền Bắc Kinh âm mưu gây chiến từ lâu. Nhưng họ lại lừa dối nhân dân trong nước và thế giới, vu cáo Việt Nam xâm lược, còn Trung Quốc chỉ "phản kích tự vệ". Họ xúi giục quân đội Pol Pot xâm lược biên giới Tây Nam Việt Nam nhưng lại dùng chiêu bài đánh biên giới phía Bắc Việt Nam để ủng hộ cách mạng Campuchia...
Kết thúc bài phát biểu kéo dài gần hai giờ, Chủ tịch Cuba kêu gọi nhân dân tiến bộ thế giới hãy nhận thức rõ âm mưu của Trung Quốc và đoàn kết với Việt Nam. "Khi Fidel hô "Nhân dân Việt Nam nghìn lần anh hùng muôn năm" thì hàng chục nghìn người dự mít tinh đồng thanh hô "muôn năm" và bắt đầu cuộc tuần hành", ông Bùi Ngọc Hải nhớ lại.
Cùng ngày 17.2, khi chiến sự xảy ra, Đại sứ Việt Nam tại Liên Hợp Quốc Hà Văn Lâu đã trao bức thư của Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh cho Tổng thư ký và Chủ tịch Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc, nêu rõ tình hình đặc biệt nghiêm trọng do nhà cầm quyền Trung Quốc gây ra trên toàn tuyến biên giới phía Bắc Việt Nam.
Ngày 24.2, tại cuộc họp Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc, Đại sứ Hà Văn Lâu có bài phát biểu về cuộc xâm lược công khai và quy mô lớn của Trung Quốc.
Ông khẳng định, đây không phải là cuộc chiến tranh biên giới mà là cuộc chiến tranh xâm lược, ngày càng ác liệt và có nguy cơ mở rộng.
Đại sứ Hà Văn Lâu tố cáo, từ năm 1974, Bắc Kinh đã chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, đưa ra đòi hỏi vô lý về những hòn đảo khác của Việt Nam ở Biển Đông. Từ năm 1978, Bắc Kinh dụ dỗ, cưỡng ép hàng chục nghìn người Hoa về nước và kích động những người còn lại ở Việt Nam gây bạo loạn. Nhân lúc Việt Nam gặp khó khăn nhiều mặt, Bắc Kinh đã dùng Pol Pot đánh Việt Nam...
"Đây là cuộc chiến tranh xâm lược hoàn toàn trái với đạo lý và nguyện vọng của nhân dân Trung Quốc. Bắc Kinh đang mạo hiểm lao vào cuộc chiến tranh phi nghĩa", Đại sứ Hà Văn Lâu nói trước các thành viên Hội đồng bảo an.