“… Cho tôi gọi chị là một Anh hùng!”
Một nhà văn nữ hy sinh nửa thế kỷ trước, vẫn khiến người đàn em sau nửa thế kỷ phải rơi nước mắt, ta biết gọi người phụ nữ ấy là gì?
Nhà văn Nguyên Ngọc - thủ trưởng cũ của nữ nhà văn Dương Thị Xuân Quý đã viết một câu như buột thốt tận đáy lòng: “Cho tôi nói điều này: Thật bất công nếu không gọi chị là một người Anh hùng!”.
Nhà văn Dương Thị Xuân Quý cùng các văn nghệ sĩ thời chiến. Ảnh: T.T
Là nhà văn và nhà báo, chị Quý nghĩ rằng, mình sẽ thực hiện được mơ ước đó khi thực sự sống cùng nhân dân, sẻ chia với nhân dân tất cả những yêu thương đằm thắm nhất của mình, qua những trang viết… |
Tại chiến trường khu Năm, trong khi vừa làm rẫy, vừa đuổi lũ khỉ phá lúa, vừa viết, chị Quý đã để lại một truyện ngắn duy nhất, truyện “Hoa rừng”. Năm 2007, khi xét giải thưởng Nhà nước cho liệt sĩ - nhà văn Dương Thị Xuân Quý, có người trong ban giám khảo còn băn khoăn: “Tác phẩm của chị Quý còn “mỏng” quá!”.
Trời ơi, ngay sau khi viết xong truyện ngắn “Hoa rừng” ít ngày, chị Dương Thị Xuân Quý đã lao xuống chiến trường đồng bằng. Đó là chuyến đi chiến trường đồng bằng đầu tiên và cuối cùng của chị. Chẳng còn cơ hội để viết thêm một dòng chữ nào nữa, kể cả viết nhật ký. Tác phẩm văn học của nữ nhà văn Dương Thị Xuân Quý không thể tính bằng số trang, mà phải tính bằng máu của tác giả. Nếu đã tính bằng máu, thì làm sao biết máu ấy “mỏng” hay “dày”, làm sao đo đếm từng giọt máu ấy?
Trong cuộc chiến tranh với Mỹ, chúng ta đã mất những con người đẹp đẽ, cao cả đến nhường nào! Nhất là khi những con người ấy là những nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ! Họ đã dồn chứa trong tâm hồn họ bao nhiêu số phận con người. Họ đã nói thay cho bao người cùng tham gia cuộc chiến đấu khốc liệt với họ. Họ đã nói thay cho nhân dân đau khổ mà anh hùng của chúng ta.
Bây giờ, khi cuộc chiến tranh với Mỹ đã lùi xa, nhiều thế hệ đã sống qua thời gian khá dài ấy, nhưng sự hy sinh ngay trong ngày 8.3 của nữ nhà văn ấy vẫn là một điều không thể và không bao giờ quên được với một đất nước chịu đựng quá nhiều cuộc chiến tranh như Việt Nam.
Hãy sống, và nhớ lấy!
Những thế hệ hôm nay cần phải được biết về sự hy sinh này, như một biểu tượng đau đớn và cao cả của một người Mẹ, khi nghiến răng rời xa đứa con đầu lòng chưa tròn năm tuổi của mình để vào chiến trường, chấp nhận mức rủi ro cao nhất.
Tôi đã đọc “Nhật ký Dương Thị Xuân Quý”. Người Mẹ ấy trên đường Trường Sơn đã nhớ thương con với một tình thương đầy vò xé, đầy day dứt và thương cảm. Nếu không có những hy sinh kinh khủng như thế của hàng triệu con người, chúng ta làm gì có ngày 30.4.1975?
Đọc tác phẩm Dương Thị Xuân Quý, nhiều khi phải đọc kỹ từng dòng, và ngẫm ngợi đến từng câu văn. Vì tác giả đã dồn hết tình yêu, tâm huyết của mình khi viết ra mỗi dòng chữ ấy. Nhìn gương mặt chị Quý trên ảnh, rất dễ nhận ra đôi mắt sáng trong đến kỳ lạ và vầng trán dô đầy cá tính, bướng bỉnh. Người Mẹ ấy dám để con ở Hà Nội cho bà ngoại nuôi, lên đường vượt Trường Sơn vào chiến trường chỉ với một khát mong lớn nhất: Được sống với nhân dân mình đang chiến đấu, được viết về nhân dân mình đang chiến đấu.
Mỗi tác phẩm dù nhỏ của những liệt sĩ - nghệ sĩ ấy để lại, là tài sản vô giá của một dân tộc biết cái giá phải trả cho độc lập tự do của đất nước mình. Bây giờ, thỉnh thoảng tôi vẫn đọc lại những câu thơ của Lê Anh Xuân, của Nguyễn Mỹ, những trang văn của Nguyễn Thi, của Dương Thị Xuân Quý, của Chu Cẩm Phong. Những dòng thơ và trang văn có lửa, có nhịp đập mãnh liệt của trái tim, có những lời thầm nhắn gửi tới thế hệ mai sau.
Đừng bao giờ quên, “dù mai sau đời muôn vạn lần hơn”. Như một tựa đề tiểu thuyết của một nhà văn xô viết nổi tiếng: “Hãy sống, và nhớ lấy!”, chúng ta hãy nhớ về một ngày Quốc tế phụ nữ 8.3 đúng 50 năm trước, một người Mẹ, một nữ nhà văn đã ngã xuống ngay căn hầm bí mật trong một khu vườn ở Duy Xuyên, với tiếng kêu cuối cùng “Con ơi!” thầm khẽ trong cổ họng.
Quảng Ngãi, ngày 26.2.2019