Cứ mỗi độ xuân về, làng Hưng Giáo lại mở hội thi thơ để tìm ra những tài năng và khơi dậy tình yêu văn chương trong cộng đồng. Hội thi thơ Xuân 2012 năm nay được họa sĩ, nhà thơ Vương Tiến Lê cùng Chi hội Hội đồng hương Hưng Giáo tài trợ giải thưởng đã thu hút được gần một trăm tác giả với hơn 300 bài thơ dự thi.
Lễ trao giải một cuộc thi thơ Xuân của làng Hưng Giáo. |
Ban giám khảo là nhà thơ Tô Thi Vân và nhà văn Tạ Duy Anh đã chọn được 15 tác giả với hơn 30 bài thơ đoạt giải, NTNN xin giới thiệu chùm thơ đoạt giải cao nhất.
Nguyễn Thế Đắc (Giải Nhất)
Xin đừng
Xin đừng làm bẩn giếng làng
Giữ hàng cây đẹp, giữ làn nước trong
Cả làng còn một giếng chung,
Nước mà trong sạch thì lòng dân yên.
Đời cây
Rơm lên cây, thóc vào bồ
Ngoài đồng còn gốc rạ trơ giữa trời.
Đã dâng hạt quý cho đời
Gốc thân ở lại đắp bồi đất đai
Một đời nắng sớm, mưa mai
Hòa trong đất – nước để nuôi mùa màng
Trời đừng hạn úng phũ phàng
Bởi còn lắm nỗi tai ương cực lòng.
Nếu đời còn biết cảm thông
Thì cây lúa bớt long đong thiệt thòi.
Lê Đình Đông (Giải Nhì)
Quê hương
Dòng người náo nức hội xuân
Mong cho anh dẫu một lần gặp may
Gặp em giữa hội xuân này
Anh như nhớ lại cái ngày em đi
Bâng khuâng chẳng biết nói gì
Tóc em sao đã bạc đi quá nhiều
Hừng đông chưa được bao nhiêu
Hoàng hôn đã gác, sương chiều đã buông
Long lanh cặp mắt em buồn
Nghẹn ngào em cố ngăn dòng lệ rơi
Nông sâu một dải cát bồi
Nổi chìm là những ngày dài tháng năm
Chia tay em bắt tay anh
Mà sao em lại loanh quanh ngượng ngùng
Chuyện xưa hai đứa chúng mình
Có còn gì nữa để dành cho nhau
Có còn gì nữa, nữa đâu...
Mà anh nhắc lại để đau, để buồn
Anh về có được lâu không?
Còn em cũng chỉ được dăm ba ngày
Nhìn em sạm má xanh gầy
Vết dầm mưa nắng tháng ngày lo toan
Em là nỗi nhớ quê hương
Tình trong lửa đạn chiến trường anh đi
Em là nỗi nhớ đồng quê
Là giếng nước mát con đê ven làng
Em là những buổi chiều hôm
Mặt trời gác núi sương buông cánh đồng
Em là vụ lúa chín vàng
Là con thuyền đã sang ngang mất rồi
Nhìn em nở một nụ cười
Anh ơi chuyện ấy bao người giống nhau
Chúng mình rồi sẽ về đâu?
Nếu không có một nhịp cầu quê hương?
Bùi Đức Hiếu (Giải Nhì)
Lũy tre làng
Làng tôi còn mấy khóm tre xanh?
Mấy rặng duối, mấy ao bèo, bờ giậu?
Tre xanh xưa, rào làng chiến đấu
Ngăn không cho giặc Pháp vào làng
Luỹ tre xanh gợi kỷ niệm xốn xang
Bao mái nhà nhờ luỹ tre bao bọc
Những trưa hè hàng tre như mái tóc
Của những nàng thôn nữ quê tôi
Gió đu đưa, tre kẽo kẹt ru hời
Vào giấc ngủ của bao nhiêu thế hệ
Ao bèo cái có bàn tay của mẹ
Chăm cho đàn lợn béo dần lên
Cõi duối xanh giăng mắc với nhà bên
Để tình ta thắm nồng bên cõi duối
Nay làng tôi biết bao thay đổi
Luỹ tre xanh cũng chặt phá hết rồi
Lấp ao bèo để nhà mới lên ngôi
Đô thị hoá ngập tràn vào xóm ngõ
Xưa Hưng Giáo chỉ là làng nho nhỏ
Nay dãn dân. Nhà kín đất cây - xanh
Đường bê tông ngang dọc chạy vòng quanh
Không còn cảnh bùn lầy, nước đọng
Đô thị hoá nâng cao dần cuộc sống
Nhưng đừng làm mất luỹ tre xanh.
Chăn trâu
Nhớ xưa cha tôi đi cày
Đồng Dành, đồng Láng, ruộng lày bùn sâu.
Buổi trưa tôi đi đón trâu.
Mang rổ khoai luộc và âu nước chè.
Gió đưa kẽo kẹt bờ tre
Làng quê yên ả, nắng hè chang chang
Em lội trên cánh đồng làng
Cua bò lổm ngổm, giương càng đuổi nhau
Thương em mặc áo cánh nâu
Mồ hôi ướt đẫm, ruộng sâu ngại gì
Má hồng lên tuổi dậy thì
Ngực căng tròn để ai về xốn xang
Đụt cua đầy chặt thắt ngang
Rảo bước về làng cùng với đàn trâu
Anh đi xa quê đã lâu
Bây giờ trở lại đàn trâu không còn
Đồng làng mơn mởn cỏ non
Trâu bò chẳng có chỉ còn máy reo
Máy phay, máy phụt đã nhiều
Vẫn nhớ những chiều vui bạn chăn trâu.