Dân Việt

Vụ sàm sỡ bé gái trong thang máy ở TP.HCM có dấu hiệu hình sự?

Yến Linh 03/04/2019 11:08 GMT+7
Người đàn ông có hành vi sàm sỡ bé gái trong thang máy tại TPHCM được luật sư cho rằng có dấu hiệu vi phạm hình sự.

Chiều 2.4, mạng xã hội lan truyền đoạn clip ghi lại cảnh một người đàn ông có hành vi sàm sỡ bé gái trong thang máy một chung cư ở TP.Hồ Chí Minh. Từ clip người xem thấy rõ hình ảnh người đàn ông dáng to cao tiến lại gần bé gái, có hành động sàm sỡ, cưỡng hôn nạn nhân nhỏ tuổi. Dù bé gái có hành động phản kháng, nhưng người đàn ông kia tiếp tục tiến tới sàm sỡ, có dấu hiệu thực hiện hành vi dâm ô.

Trao đổi với Dân Việt về sự việc người đàn ông sàm sỡ bé gái trong thang máy chung cư tại TPHCM luật sư Đặng Văn Cường – Đoàn luật sư TP. Hà Nội cho biết: “Vụ việc người đàn ông xông vào ôm hôn, sờ soạng vào người bé gái trong thang máy xảy ra tại TPHCM có dấu hiệu hình sự, không đơn giản như vụ xảy ra với nữ sinh tại Hà Nội”.

img

Hình ảnh người đàn ông sàm sỡ bé gái trong thang máy tại TP Hồ Chí Minh. Ảnh: Cắt từ clip

“Có thể nói rằng hai vụ việc này đều là ôm hôn, cùng trong thang máy nhưng tính chất của hai vụ việc hoàn toàn khác nhau, bởi nạn nhân trong vụ thứ hai tại TP. Hồ Chí Minh là trẻ em. Bởi vậy, vụ việc người đàn ông ôm hôn, sờ soạng trẻ em thì tính chất nguy hiểm cho xã hội cao hơn rất nhiều, hậu quả tổn hại tới tâm, sinh lý của nạn nhân và gây ra mối đe dọa, hiểm họa của nạn nhân.

Hiện nay, bộ Luật Hình sự không có tội dâm ô với người từ đủ 16 tuổi trở lên nhưng có tội dâm ô với người dưới 16 tuổi. Vì vậy, hành vi này cần xem xét dấu hiệu của tội dâm ô với trẻ em chứ không đơn giản là chỉ xử phạt hành chính 200 nghìn đồng như vụ việc gần đây.

Từ clip cho thấy hành vi của đối tượng nhiều lần xúc phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của em bé gái. Hành vi ôm hôn, sờ soạng vào người bé gái có thể không nhằm mục đích giao cấu với nạn nhân nhưng không phải trò đùa. Ở đây, đối tượng đã tìm kiếm sự kích thích nhằm thỏa mãn dục vọng. Bởi vậy, theo tôi hành vi này có dấu hiệu cấu thành của tội dâm ô với người dưới 16 tuổi quy định tại Điều 146 Bộ luật hình sự".

img

Luật sư Đặng Văn Cường - Đoàn luật sư TP Hà Nội.

Đồng tình với quan điểm trên luật sư Hoàng Trọng Giáp – Công ty Luật Hoàng Sa, Đoàn luật sư TP. Hà Nội nói: “Từ clip cho thấy, người đàn ông vào thang máy đã có hành vi “cưỡng hôn” bé gái 2 lần, dùng tay, cơ thể của mình ôm ghì bé gái, sờ, cọ xát vào bộ phận nhạy cảm của bé gái. Trong khi pháp luật quy định trẻ em là đối tượng đặc biệt được bảo vệ theo điều 37 Hiến pháp 2013, Điều 6 Luật trẻ em 2016, nghiêm cấm các hành vi xâm hại tình dục, bạo lực, lạm dụng, bóc lột đối với trẻ em.

Chuỗi hành vi của người đàn ông xâm phạm đến thân thể của bé gái (khoảng 5-6 tuổi) trong thang máy đã đủ các yếu tố cần thiết về luật pháp, đạo đức, sự bất bình dư luận để xử lý hình sự hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi theo quy định tại Điều 146 Bộ luật hình sự".

img

Luật sư Hoàng Trọng Giáp – Công ty Luật Hoàng Sa, Đoàn luật sư TP. Hà Nội.

Được biết, cơ quan Công an đã xác định nhân thân của người đàn ông sàm sỡ trong thang máy. Người này tên Nguyễn Hữu Linh, sinh năm 1958, hiện đang sinh sống tại TP Đà Nẵng. Tuy nhiên, người này hiện chưa lên cơ quan công an làm việc.  

Luật sư Đặng Văn Cường cho hay: "Trong trường hợp cơ quan điều tra triệu tập mà đối tượng này cố tình trốn tránh, không đến làm việc, nhưng qua thông tin từ clip và nhân chứng, làm rõ nhân thân của đối tượng này thì vẫn có thể khởi tố vụ án, khởi tố bị can và phát lệnh truy nã mà không cần phải lời khai nhận tội của đối tượng.

Nếu bị xử lý hình sự đối tượng này sẽ phải đối mặt với mức hình phạt quy định tại khoản 2, điều 146 Bộ luật hình sự là bị phạt tù từ 3 năm đến 7 năm tù.” 

Điều 146 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa  đổi bổ sung năm 2017 quy định về tội dâm ô với người dưới 16 tuổi như sau: 

1. Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà có hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi không nhằm mục đích giao cấu hoặc không nhằm thực hiện các hành vi quan hệ tình dục khác, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:

- Phạm tội có tổ chức;

- Phạm tội 02 lần trở lên;

- Đối với 02 người trở lên;

- Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh;

- Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 11% đến 45%;

- Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm:

- Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 46% trở lên;

- Làm nạn nhân tự sát.

4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.