|
Nước sạch làm thay đổi cuộc sống của đồng bào dân tộc (ảnh chụp tại huyện Văn Chấn, Yên Bái). Ảnh: Nguyễn Hữu |
62% công trình hoạt động tốt
Theo báo cáo của 42 tỉnh về "tính bền vững" của công trình cấp nước tập trung cho thấy, trong số 86% công trình thì có 62% công trình hoạt động tốt còn 24% là trung bình. Nhiều tỉnh đã áp dụng các mô hình quản lý và vận hành công trình nước sạch rất tốt. Tiêu biểu là tỉnh Bến Tre hiện có 15 công trình do tư nhân quản lý.
Tổ chức ICEAL (Pháp) đang triển khai Dự án thí điểm áp dụng công nghệ vi sinh xử lý nước mặt các kênh mương bị ô nhiễm tại huyện Ý Yên (Nam Định) bằng chế phẩm sinh học BIOVASE. Dự án này với tổng kinh phí gần 438.000 USD, được thực hiện trong vòng 18 tháng kể từ cuối tháng 9 - 2010. Hữu Chiến
Các công trình do các Trung tâm NS&VSMTNT tỉnh quản lý hoạt động cũng rất hiệu quả. Các công trình cấp nước tập trung quy mô lớn hơn xác định mức tiêu thụ bằng đồng hồ nước và có hệ thống ghi hóa đơn và thu tiền hàng tháng đã đưa lại kết quả đáng mừng.
Các mức giá nước tại các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long khoảng từ 2.200 đồng/m3 (mức giá ưu đãi cho các hộ nghèo) đến 5.700 đồng/m3 như ở Bến Tre. Người sử dụng nước ở các công trình cấp nước tập trung quy mô nhỏ hơn đang được tính mức giá trợ cấp rất thấp là 3.000 đồng/tháng.
Chi phí đấu nối khoảng từ 500.000 - 900.000 đồng. Con số này thể hiện nguồn đóng góp đáng kể nhất bằng tiền mặt của người hưởng lợi ở giai đoạn 2 này. Hơn nữa, chương trình vay vốn của Ngân hàng Chính sách xã hội VN cũng đã tạo điều kiện giúp đỡ người nghèo vay vốn để trả chi phí cho việc đấu nối đưa nước đến từng hộ dân. Tuy vậy, một số công trình cấp nước tập trung quy mô nhỏ theo dự kiến, do cộng đồng quản lý chưa thực sự được tốt.
Được biết, đây là lần đầu tiên Chương trình thông qua hệ thống đánh giá và giám sát đã cung cấp cơ sở dữ liệu chính xác về độ bao phủ cho cấp nước sạch và vệ sinh ở khu vực nông thôn.
Đột phá giai đoạn 2011-2015
Theo thiết kế, công tác chuẩn bị xây dựng Chương trình NS&VSMTNT giai đoạn III (2011 - 2015) đang được triển khai tốt, mặc dù chất lượng chưa được đồng đều. Qua kết quả khảo sát và đánh giá, thiết kế đang trong quá trình hoàn thành.
Hầu hết các tỉnh đã thực hiện hướng dẫn trong Thông tư liên tịch 95/2009 về giá tiêu thụ nước sạch tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị vận hành thu đủ tiền để chi trả cho các khoản chi phí vận hành và bảo dưỡng công trình.
Các nhà tài trợ muốn vận dụng kết quả này như là tài liệu thiết kế chương trình chung thay vì phải xây dựng thiết kế riêng như trường hợp của giai đoạn 2006-2010. Vì vậy, theo yêu cầu của phía đối tác, các nhà tài trợ dự án, một số nội dung của tài liệu thiết kế cần được bổ sung thêm.
Được biết, việc chia sẻ thông tin và kinh nghiệm giữa các dự án của Ngân hàng Thế giới (WB) và Ngân hàng châu Á (ADB) trong Chương trình quốc gia NS&VSMTNT giai đoạn II còn tương đối hạn chế.
Vì vậy, nếu làm tốt được điều này sẽ có lợi hơn và đảm bảo rằng các dự án khác được phản ánh đến trong Chương trình NS&VSMTNT giai đoạn 2011-2015 sớm hơn. Để có những đột phá trong giai đoạn tiếp theo này, chương trình đang sửa đổi chính sách để tăng cường khung pháp chế; những quyết định mới ban hành về xã hội hóa và khung giá nước sạch sửa đổi đã được thiết kế để nâng cao tính bền vững cho chương trình.
Các chính sách vẫn đang tiếp tục được sửa đổi, bổ sung trong bối cảnh Chương trình NS&VSMTNT giai đoạn III (2011-2015), trong đó nhấn mạnh đến công tác thông tin-giáo dục-truyền thông vệ sinh và chất lượng nước.
Nguyễn Hữu
Vui lòng nhập nội dung bình luận.