SSI Research: Triển vọng ngành ngân hàng phụ thuộc vào tiến triển về pháp lý của các dự án bất động sản

02/06/2023 16:43 GMT+7
Theo các chuyên gia phân tích của SSI Research, chỉ khi giải quyết được những vướng mắc về pháp lý của các dự án bất động sản, các ngân hàng mới có thể kỳ vọng vào sự phục hồi mạnh mẽ trong nửa cuối năm 2024.

Tăng trưởng tín dụng trong quý I/2023 đạt 12%

Theo cập nhật Báo cáo ngành ngân hàng của Công ty chứng khoán SSI (SSI Research), sau đợt hạ lãi suất điều hành lần 3 của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), tính tới 29/5/2023, lãi suất huy động kỳ hạn 12 tháng đã giảm khoảng 2 – 3% so với đầu năm tại nhiều ngân hàng. Đối với các NHTMCP, lãi suất huy động kỳ hạn 12 tháng hiện đang quanh mức 8 – 8,5%, nhưng một số ngân hàng vẫn đưa ra mức lãi suất hấp dẫn trên 9%. Trong khi đó, các NHTMNN có mặt bằng lãi suất huy động kỳ hạn 12 tháng quanh mức 7%.

SSI Research cho rằng, NHNN đang nới lỏng chính sách tiền tệ, phản ánh không chỉ qua việc cắt giảm lãi suất mà còn thông qua một số Thông tư liên quan đến thị trường trái phiếu doanh nghiệp và cho phép các ngân hàng cơ cấu giữ nguyên nhóm nợ.

SSI Research cho biết, dữ liệu vĩ mô thế giới không được khả quan như kỳ vọng và số liệu của Việt Nam cũng không ngoại lệ. Trong bối cảnh đó, các tác động đối với ngành ngân hàng có thể được thể hiện qua những yếu tố như tăng trưởng tín dụng yếu đi, tỷ lệ hình thành nợ xấu cao hơn dự kiến, NIM thu hẹp nhiều hơn kỳ vọng và thu nhập ngoài lãi chậm lại. Điều này tác động đến kết quả kinh doanh quý I/2023 của các ngân hàng.

Trong nhóm ngân hàng SSI nghiên cứu, tăng trưởng tín dụng trong quý I/2023 chỉ đạt 12% so với cùng kỳ (svck), thấp hơn nhiều so với quý I/2022 (20%) và tương đương với quý I/2020. Động lực tăng trưởng chính đến từ các khoản cho vay ngắn hạn cho doanh nghiệp, ngoại trừ TCB và MSB. Dư nợ cho vay ngành bất động sản & xây dựng vẫn đạt tốc độ tăng trưởng nhanh nhất, có thể thấy rõ tại một vài ngân hàng.

SSI Research: Triển vọng ngành ngân hàng phụ thuộc vào tiến triển mặt pháp lý của các dự án bất động sản - Ảnh 1.

Bên cạnh đó, chất lượng tài sản của các ngân hàng giảm nhanh hơn dự kiến. Vấn đề này không chỉ xuất phát từ thị trường bất động sản mà còn từ các lĩnh vực khác do tình hình kinh tế không thuận lợi. Trong quý I/2023, nợ xấu và nợ nhóm 2 tăng đáng kể 24% và 44% so với đầu năm. Theo đó, tỷ lệ nợ nhóm 2 và nợ xấu lần lượt là 2,54% và 1,76% tính tại thời điểm cuối quý I/2023.

Một điểm đáng lưu ý nữa là mặc dù tỷ lệ hình thành nợ xấu cao nhưng chi phí tín dụng lại không tăng tương ứng. Điều này có thể là do các ngân hàng đang chờ những quy định và cơ chế mới về cơ cấu nợ từ NHNN dự kiến được ban hành vào tháng 4. Vì vậy, gánh nặng trích lập dự phòng có thể còn tăng trong quý II/2023, SSI đánh giá.

NIM thu hẹp nhiều hơn kỳ vọng so với quý trước do lãi suất cho vay giảm để kích cầu tín dụng và hạn chế hình thành nợ xấu. Nhìn chung, NIM giảm 24 điểm cơ bản so với quý trước trong đó VPB là ngân hàng có NIM thu hẹp nhiều nhất, ngược lại VIB lại ghi nhận mức NIM tăng trưởng tốt trong quý I/2023.

SSI Research: Triển vọng ngành ngân hàng phụ thuộc vào tiến triển mặt pháp lý của các dự án bất động sản - Ảnh 2.

Thu nhập ngoài lãi giảm tốc do việc kiểm soát chặt chẽ hoạt động bán bảo hiểm qua kênh ngân hàng cũng như hoạt động xuất nhập khẩu chững lại (từ quý II/2023).

Với những khó khăn này, SSI Research hạ ước tính tăng trưởng lợi nhuận trước thuế (LNTT) của các ngân hàng xuống 10% svck (từ mức 13,8% svck như ước tính trước đó). Mức tăng trưởng tại các NHTMNN sẽ khả quan hơn (+18,5% svck) so với các NHTMCP (+4,9% svck) (tức các NHTMNN có tăng trưởng lợi nhuận khả quan gấp hơn 3,7 lần so với các NHTMCP).

Triển vọng ngành ngân hàng phụ thuộc vào tiến triển mặt pháp lý của các dự án bất động sản

Theo nhóm nghiên cứu của SSI, những khó khăn hiện tại và quyết định triển vọng của các ngân hàng trong nửa cuối năm 2024 là sự tiến triển về mặt pháp lý của các dự án bất động sản.

Hiện tại, vấn đề này đang được giải quyết theo từng trường hợp cụ thể, thay vì một giải pháp tổng thể cho toàn bộ các dự án. Do đó, tác động đối với từng ngân hàng có tỷ trọng cho vay lớn với thị trường bất động sản cũng sẽ rất khác nhau. Tương tự như vậy, việc cơ cấu lại nợ cũng sẽ được cân nhắc theo từng trường hợp cụ thể dựa vào khả năng hồi phục của khách hàng.

Với nhóm dự án không vướng mắc pháp lý, nhóm nghiên cứu kỳ vọng các dự án này có thể nhận được nguồn vốn từ ngân hàng để tiếp tục xây dựng & đủ điều kiện tái cơ cấu. Các khoản cho vay mua nhà liên quan sau đó cũng có thể được xem xét để giãn thời gian trả nợ. Như vậy, nhà phát triển bất động sản có thể hoàn thành dự án và bàn giao căn hộ cho người mua nhà sau này. Theo đó, rủi ro nợ xấu phát sinh từ chuỗi giá trị bất động sản liên quan đến các dự án đó có thể dần được kiểm soát vào năm 2024.

Tuy nhiên, một chuyên gia lưu ý, với tốc độ tăng trưởng của tín dụng bất động sản như hiện tại, những ngân hàng đã có khẩu vị rủi ro cho vay bất động sản cao và dư nợ bất động sản cao trước đây, sẽ khó mở rộng cho vay thêm. Đây là cơ hội của những ngân hàng có tỷ trọng cho bất động sản và trái phiếu thấp, nhưng mặt khác là thách thức để tìm kiếm con đường tăng trưởng với chất lượng tín dụng tốt, đảm bảo nguồn thu nhập lãi và lợi nhuận cao trong năm nay. Những ngân hàng có cho vay tập trung theo hệ sinh thái (ví dụ TCB hay MBB) theo đó cũng sẽ bị ảnh hưởng.

Với nhóm dự án có vấn đề pháp lý phức tạp (như sai quy hoạch), nhóm SSI Research cho rằng việc gia hạn thêm 1 năm cho các dự án này có thể là chưa đủ. Do đó, việc cơ cấu các khoản vay cho những dự án này và các khoản vay mua nhà liên quan có thể được ngân hàng xem xét một cách cẩn trọng.

Trong khi đó, điểm mấu chốt của những ngành nghề khác (như thép, xuất nhập khẩu, năng lượng tái tạo...) là liệu các doanh nghiệp này có thể sớm có đơn đặt hàng mới trở lại hay có thể đảm bảo đầu ra cho sản phẩm với giá ưu đãi để cải thiện dòng tiền đủ để thanh toán các nghĩa vụ nợ đến hạn trong nửa cuối năm 2024 hay không.




O.L
Cùng chuyên mục