Ứng dụng công nghệ cao trong phát triển sản phẩm cá nước lạnh tại Việt Nam

10/11/2020 10:04 GMT+7
Về “dài hơi” với ngành nuôi cá nước lạnh, cần tiếp tục có được sự đầu tư về công nghệ sản xuất giống; hoàn thiện công nghệ sản xuất thức ăn cho cá nước lạnh trong nư
Ứng dụng công nghệ cao trong phát triển sản phẩm cá nước lạnh tại Việt Nam - Ảnh 1.

Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao trong phát triển cá nước lạnh tại Việt Nam. Ảnh minh họa.

Theo thông tin từ Tổng cục Thủy sản (Bộ NN&PTNT), hiện nay, cả nước có 25 tỉnh phát triển nuôi cá nước lạnh (hai đối tượng cá nước lạnh được nuôi phổ biến là cá tầm và cá hồi), sản lượng cá nuôi nhiều nhất là tại các tỉnh phía Bắc và Tây Nguyên, điển hình là Lâm Đồng, Lào Cai, Sơn La, Lai Châu… Sản lượng nuôi cá nước lạnh từ 95 tấn vào năm 2007 đến năm 2020 ước đạt 3.720 tấn.

Cá nước lạnh đã được nhiều địa phương xem như một trong những đối tượng nuôi quan trọng, góp phần vào khai thác tiềm năng các thủy vực nước lạnh. Việc phát triển trong những năm qua đã đưa Việt Nam vào nhóm 10 nước có sản lượng cá tầm lớn nhất thế giới là Trung Quốc, Nga, Italia, Bulgaria, Iran, Mỹ, Pháp, Việt Nam, Ba Lan và Đức. 

Tuy nhiên, theo nhận định từ các chuyên gia, hiện nay các sản phẩm thủy sản nước lạnh chủ yếu là hàng tươi sống, các tổ chức, cá nhân chưa mạnh dạn đầu tư cho chế biến các sản phẩm từ cá hồi, cá tầm.

Theo Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Phùng Đức Tiến, mặc dù Chính phủ, các Bộ ban ngành trong thời gian gần đây đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ ngành thuỷ sản trong đó có cá nước lạnh tuy nhiên, các cơ sở sản xuất cá nước lạnh chưa được hưởng các chính sách ưu đãi từ các chính sách trên. Phần lớn các cơ sở phải nhập khẩu trứng cá thụ tinh về để ương thành cá giống làm cho giá thành sản phẩm tăng cao, khó cạnh tranh với cá nhập khẩu.

Trong nuôi cá nước lạnh, thức ăn chiếm hơn 60% giá thành sản phẩm nhưng có đến 50% thức ăn cho nuôi cá hồi được nhập khẩu với giá thành cao. Chi phí đầu tư cho các cơ sở nuôi cá nước lạnh là rất lớn, giá bán sản phẩm chưa ổn định, khó cạnh tranh với cá nước lạnh nhập khẩu từ Trung Quốc, đặc biệt tại các tỉnh khu vực phía Bắc.

Ở khía cạnh khác, theo ông Trần Đình Luân - Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản, việc khai thác và sử dụng nguồn nước lạnh chưa phát huy hết tiềm năng, hiệu quả, vẫn còn tình trạng sử dụng nguồn nước lạnh lãng phí nhất là các cơ sở nuôi ở vị trí đầu nguồn nên còn tình trạng xảy ra tranh chấp về nguồn nước trong mùa khô. Với hệ thống nuôi như hiện nay phụ thuộc rất nhiều vào nguồn nước tự nhiên đặc biệt các tỉnh Tây Bắc từ tháng 1 đến tháng 4 hàng năm là mùa khô, không đảm bảo nguồn nước cung cấp cho các cơ sở nuôi nên không nâng cao được năng suất. Trong vài năm gần đây, mưa lũ đã gây thiệt hại rất lớn cho các cơ sở nuôi cá nước lạnh.

Về “dài hơi” với ngành nuôi cá nước lạnh, cần tiếp tục có được sự đầu tư về công nghệ sản xuất giống; hoàn thiện công nghệ sản xuất thức ăn cho cá nước lạnh trong nước; áp dụng các mô hình nuôi cá nước lạnh ứng dụng công nghệ cao.


Theo Phương Mai/VietQ
Cùng chuyên mục