Việc chưa nguôi thì người ta lại có ý định khiếm nhã đổ thêm 2,4 triệu tấn bùn thải nữa như xem chốn đó là túi rác?
Báo chí vừa đưa tin Tổng Công ty Phát điện 3 cho biết, thủ tục đã hoàn thành và trình Bộ TNMT phê duyệt. Dự kiến, trong năm nay sẽ tiến hành việc đổ 2,3 triệu tấn bùn thải này.
Với gần 1 triệu khối bùn thải vừa được cấp phép cho Công ty TNHH Điện lực Vĩnh Tân 1 (chủ đầu tư Nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân 1) nhận chìm với bùn, cát, vỏ sò, sạn sỏi ra vùng biển thuộc xã Vĩnh Tân, huyện Tuy Phong thì trong các tài liệu công bố có lấy ý kiến của nhiều bộ, ngành liên quan nhưng không thấy lấy ý kiến của cộng đồng dân cư ven biển huyện Tuy Phong.
Người ta biện lý rằng đó không phải là xả thải mà đào vũng quay cho tàu vào cảng nhập than. Bùn và cát biển nhận chìm là đưa từ vị trí này đến vị trí khác không gây hại với môi trường biển.
Người ta cũng uyển ngữ đó là vật liệu nạo vét chứ không phải là chất thải, nó đã nằm dưới biển nên di chuyển từ vị trí biển này sang vị trí biển khác.
Hãy nhớ rằng, nhận chìm không phải là tính cơ học đào và đổ, mà với lượng bùn lớn như thế phải nhận chìm làm sao để chúng không di chuyển mới gọi là nhận chìm đúng nghĩa, không thể đào lên chở đi, đổ xuống rồi định nghĩa một cách qua loa sơ sài là nhận chìm.
Dường như người ta nghĩ biển Bình Thuận là nơi không phải môi trường trong lành có hệ sinh thái và khu bảo tồn biển Hòn Cau vô giá?
Người ta cũng chắc không nghĩ biển ấy là nơi mưu sinh của bao nhiêu ngư dân không phải chỉ bây giờ mà còn là hậu thế của các làng chài hùng mạnh vừa vươn vai trở mình mấy chục năm gần đây?
Dự án nhiệt điện Vĩnh Tân. Ảnh: TBKTSG
Với các dự án nhiệt điện thì bất cứ hạng mục nào cấu thành dự án đó nó đều thuộc danh mục công nghiệp nặng.
Nạo vét 1 triệu mét khối bùn cát làm cảng cho tàu thuyền nhập than cũng là hoạt động công nghiệp nặng của dự án nhiệt điện, không thể tách ra thành cái gọi là vật liệu được.
Bởi máy móc nạo vét khối lượng lớn ấy đương nhiên khổng lồ, tàu thuyền, xà lan vận chuyển đi đổ cũng thuộc loại lớn.
Không ai dám chắc dầu công nghiệp trong những cỗ máy đó không xả thải rồi loang ra trên mặt biển khiến cá tôm ngư dân đánh bắt bị nhiễm dầu loang sẽ như thế nào?
Dù người dân không có chuyên môn cao, nhưng họ cũng biết đặt câu hỏi, phải chăng dưới biển là nơi khuất mắt nên người ta chọn cách nhận chìm?
Trên truyền thông, TS Võ Tuấn Việt - Viện trưởng Viện Hải dương học (Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam), đánh giá, tác động dưới nước ít được quan tâm, vì rất khó nhận biết.
Tuy nhiên, chỉ một chi tiết nhỏ là nước làm mát của các nhà máy nhiệt điện khi thải ra môi trường biển cũng đã làm tăng nhiệt độ nước biển, ảnh hưởng đến đời sống của các loài sinh vật biển trong khu vực, chưa nói đến việc đánh chìm hàng triệu mét khối đất đá và chưa tính toán hết các trường hợp xảy ra sự cố.
Trong khi đó TS Nguyễn Tác An - Phó Chủ tịch Hội Khoa học kỹ thuật biển Việt Nam, nguyên Viện trưởng Viện Hải dương học Nha Trang, nói với báo chí rằng: “Mặc dù các nhà khoa học, báo chí, dư luận xã hội lo ngại việc chôn cả triệu mét khối chất thải đó sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến Khu bảo tồn biển Hòn Cau, hủy diệt đa dạng sinh học cả vùng biển này, thế nhưng giấy phép kia vẫn được đưa ra.
Điều đó cho thấy sự tiếp thu phản biện từ xã hội là chưa thật thấu đáo.
Việc Bộ TNMT cho đổ thải xuống vùng biển quan trọng như tôi nói trên đây cho thấy họ hạ thấp giá trị, vai trò của Khu bảo tồn biển Hòn Cau. Các nhà khoa học chúng tôi thật sự không hiểu họ căn cứ vào cái gì để cho nhận chìm cả một núi chất thải xuống vùng biển quan trọng bậc nhất Việt Nam. Có lẽ các ông ấy thấy nhiệt điện là quan trọng nhất! Và họ cứ thế mà làm thôi”.
Ông An nhấn mạnh rằng: “Mặt đáy biển tự nhiên nâng cao lên, gây ra tác động sinh thái, đấy mới là thảm họa”.
Biển mãi mãi là cái nôi của sự sống, nhân tố sống còn của con người, môi trường biển được giữ gìn xanh sạch là nguồn lực của các quốc gia có biển cho sự phát triển bền vững với các thế hệ sau.
Thế nhưng Tổng Công ty phát điện 3 lại muốn đổ thêm 2,3 triệu khối bùn thải ra biển Bình Thuận với sự tự tin phát biểu với báo giới là cuối năm sẽ tiến hành.
Các quy trình khoa học, đánh giá tác động môi trường, lấy ý kiến cộng đồng khu dân cư nếu làm đúng phải kéo dài hàng năm nhưng ở đây người ta tự tin đến mức chỉ mấy tháng sẽ được cấp giấy phép thì không hiểu cái quy trình ấy sẽ “bất thường” như thế nào?
Khi nêu những phương án cái gọi là nhận chìm hay đưa dự án nhiệt điện cho bất cứ dự án nào, người ta đều thuyết minh về tạo việc làm, thu ngân sách vài ngàn tỷ và nói không làm bằng mọi giá nhưng Tiến sĩ Nguyễn Tác An cảnh báo về mặt tuyên bố: “Tại nhiều hội nghị, các nhà quản lý hay hùng hồn cam kết là phát triển kinh tế không bằng mọi giá. Nhưng qua việc cho đổ thải trên, tôi thấy họ đã bằng mọi giá để đạt được mục tiêu của mình”.
Nhìn trên sơ đồ phát triển điện thì việc xin nhận chìm cái gọi là vật liệu bùn thải sẽ còn tiếp diễn trong thời gian tới, bởi đến năm 2030, Việt Nam có 64 nhà máy nhiệt điện than, phần lớn được các chủ đầu tư chọn xây dựng ven biển để tiện xả thải nước làm mát và kéo theo lượng lớn 64 cảng biển xây dựng theo để phục vụ vận chuyển than nuôi nhà máy.
Chưa kể lượng lớn xỉ than thải ra mà hiện tại chưa có giải pháp tái chế nào không ảnh hưởng môi trường một cách hiệu quả. Những việc này tiềm ẩn nhiều rủi ro đe dọa nghiêm trọng hệ sinh thái biển cũng như sinh kế ngư dân ven biển.
Môi trường biển bảo toàn tốt, phát triển bền vững sẽ đưa lại nền kinh tế xanh, trở thành di sản vàng cho các thế hệ sau, ngược lại sẽ là thảm họa và khó cân đong đo đếm được trong tương lai.
Vui lòng nhập nội dung bình luận.