Thưa đại tá, ông còn nhớ niềm vui của ngày đầu tiên gia nhập Không quân Việt Nam?
Đại tá Nguyễn Văn Nghĩa.
- Năm 1955, tôi theo cha tập kết ra Bắc, ở quê còn mẹ và hai em nhỏ. Tôi hầu như không có tin tức của mẹ và các em, chỉ mong có ngày trở về thăm. Năm tháng học trò trên đất Bắc, tôi ham đọc những câu chuyện về các phi công lừng danh của Không quân nước Nga Xô Viết với những trận không chiến huyền thoại, hạ gục hàng chục phi cơ của Không quân phát xít Đức, mặc dù không thể hình dung được “các cuộc đấu võ trên không” ấy ra làm sao nhưng tôi rất say sưa với những kỳ tích của các phi công anh hùng Liên bang Xô Viết thời đó những năm 1941 -1945. Như có một ma lực cuốn hút, tôi vừa ngưỡng mộ vừa khâm phục và thầm ước giá mà mình được làm phi công như họ.
Có ngờ đâu ước mơ của tôi lại thành sự thật. Tháng 5.1965, một đoàn cán bộ của Quân chủng Phòng không - Không quân về trường cấp III Cao Bá Quát để thực hiện đợt tuyển phi công. Thời gian này, tôi vừa hoàn thành kỳ thi tốt nghiệp cấp III và thực hiện kỳ tuyển sinh đại học. Tất cả nam thanh niên từ lớp 8 đến lớp 10 đều được tham gia kỳ tuyển lựa phi công này. Kết thúc vòng sơ tuyển, 4 người, trong đó có tôi được vào vòng trong. Sau đó, tôi tiếp tục trải qua nhiều vòng kiểm tra về tim mạch, thần kinh…
Ước mơ bay vào bầu trời khiến tôi chần chừ với giấy báo trúng tuyển vào Đại học An ninh, được đào tạo tại Cộng hòa dân chủ Đức. Tôi chờ đợi. 10 ngày sau, ngày 27.6.1965, bất thình lình, tôi nhận thông báo trúng tuyển phi công do một anh cán bộ của Quân chủng Phòng không - Không quân về tận nhà trao quyết định.
Tôi sung sướng đến tột độ, như muốn hét to lên “Trúng rồi!”. Có ngờ đâu cuộc đời và sự nghiệp của tôi lại được kết nối với bầu trời, làm bạn với những cánh én bạc, máy bay tiêm kích của Không quân nhân dân Việt Nam từ ngày đó. Binh nghiệp bầu trời bắt đầu.
Ông đã bắn rơi chiếc máy bay Mỹ đầu tiên như thế nào?
- Những ngày nắng nóng, đợt gió Lào trải khắp vùng đất Khu 4 ra đến giáp Hà Nội. Chúng tôi như thường lệ lặng lẽ sáng đi tối về. Ngày hôm trước ở đất Thọ Xuân, ngày hôm sau ra Đa Phúc, hoặc vào sân bay dã chiến nào đó ở Khu 4.
Đại tá Nguyễn Văn Nghĩa ngoài cùng bên phải.
Sau ngày 16.4, hầu như phi công MIG21 tập trung về các sân bay Đa Phúc, Kép, Gia Lâm, Yên Bái, Hòa Lạc, Miếu Môn… sẵn sàng cất cánh bảo vệ Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên và các địa danh cửa ngõ tiến về Hà Nội.
Ngày 22.6.1972, biên đội chúng tôi gồm Nguyễn Văn Nghĩa và Nguyễn Văn Toàn được lệnh cơ động xuống sân bay Gia Lâm.
9h45 ngày 23.6.1972 tại sân bay Gia Lâm, lệnh từ Sở chỉ huy cho biên đội chúng tôi mở máy cất cánh. Sau khi lấy độ cao 8.000m, bay về hướng Hòa Bình, Sở chỉ huy liên tục thông báo số lượng, vị trí các tốp máy bay đối phương.
Ở cự ly khoảng 15km, tôi phát hiện đầu tiên là 4 chiếc F4, sau đó phát hiện thêm vài tốp khác nữa. 4 chiếc vòng trong tách thành hai tốp nhỏ, kéo dài cự ly chủ động tấn công vào chúng tôi, những chiếc còn lại yểm hộ vòng ngoài. Ưu thế trận đánh tất nhiên là bất lợi, tôi ra lệnh cho số 2 công kích vào 2 chiếc F4 phía sau bám theo tôi, còn tôi tấn công tốp F4 bên trái.
Trong giây lát, bằng động tác kỹ thuật quyết liệt đã được tập luyện kỹ trên máy bay MIG 21, áp dụng “miếng võ gia truyền” vào thế đánh, tôi nhanh chóng đưa F4 vào bán cầu phía trước, làm chủ tình thế.
Ở thời điểm có lợi nhất, tôi nổ súng. Một “con ma” bốc cháy rơi tại chỗ. Đó chính là chiếc máy bay đầu tiên của Mỹ mà tôi bắn rơi… Chiều hôm đó là một buổi chiều vui nhất, hạnh phúc nhất trong cuộc đời lính bay của tôi. Tâm trạng ấy lấn chiếm hết mọi thứ trong cuộc sống riêng của tôi.
Xin ông kể về trận chiến “Điện Biên Phủ trên không” mà ông đã bắn rơi chiếc F4?
- Trong mấy ngày đầu không quân ta xuất kích, tuy chưa bắn được máy bay Mỹ nhưng làm tản mát đội hình chiến thuật không quân Mỹ, tạo điều kiện bộ đội tên lửa lập công.
13h40 ngày 23.12.1972, biên đội chúng tôi gồm Nguyễn Văn Nghĩa và Lê Văn Kiên xuất kích từ Đa Phúc. Máy bay F4 lúc nhúc, bên phải bên trái. Tôi điều khiển máy bay quật lên quật xuống tránh tên lửa không đối không và tìm cách đưa đối thủ vào vòng ngắn. Căng thẳng và áp lực khiến tôi đổ mồ hôi ròng ròng. Máy bay chấn động dữ dội vì tên lửa địch nổ rất gần. Tôi đưa một “con ma” vào vòng ngắm và nổ súng. Nghe tiếng số 2 reo “cháy rồi”, chúng tôi mau lẹ vọt lên cao và trở về an toàn. Đây là chiếc F4 đầu tiên lực lượng không quân ta bắn rơi trong chiến dịch ngăn chặn B52 đánh phá miền Bắc năm 1972.
Ngày chiến thắng, trở về quê hương Quảng Ngãi thân yêu, ông có tin tức của người thân?
- Tháng 5.1975, đất nước giải phóng, tôi dẫn đầu một phi đội 13 máy bay MIG21 bay từ Hà Nội vào hạ cánh xuống sân bay Đà Nẵng và Biên Hòa trong điều kiện không có dẫn đường, không radar.
Ngày 15.5.1975, chúng tôi bay diễu binh mừng chiến thắng trên bầu trời thành phố mang tên Bác. Ngày 2.6.1975 sau khi ổn định đơn vị, tôi được về tìm mẹ sau 22 năm xa cách.
Suốt thời gian hai ngày trên đường, tôi đau đáu trong lòng cầu mong sao cho mẹ còn sống và ao ước sớm gặp mẹ. Chiều 3.6.1975, tôi đã gặp lại mẹ trong mừng mừng, tủi tủi. Chỉ biết rằng lúc đó không có gì vui sướng, hạnh phúc khi mẹ tôi còn sống và tôi được ấp ủ trong vòng tay của bà.
3 ngày chung sống bên mẹ trong một túp lều, không giường, không chiếu, không chăn, không mùng nhưng vẫn thấy ấm áp và tràn đầy hạnh phúc vì được ở bên mẹ. Tuy nhiên, có nỗi buồn làm tôi đau xé tim gan là các em tôi đã hy sinh khi mới đang ở độ tuổi đôi mươi.
Mẹ tôi ôm tôi khóc từ 17h đến 0h đêm vì tôi đã về, và vì nỗi đau cào xé khi hai em tôi không còn nữa. Trên đời này, có lẽ không có tình nào thiêng liêng bằng tình mẫu tử.
Đại tá, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam Nguyễn Văn Nghĩa (SN 1946) quê ở Quảng Ngãi, là phi công MIG21 đạt đẳng cấp ACE (bắn rơi từ 5 chiếc trở lên). Năm 1992, ông chuyển sang làm Hiệu trưởng trường Hàng không Việt Nam. Năm 2017, ông được mời tham dự gặp gỡ các phi công Việt Nam và Mỹ từng là đối thủ của nhau trên bầu trời Bắc Việt Nam. |
Vui lòng nhập nội dung bình luận.