Trong liên tiếp 2 năm gần đây, Tập đoàn Thủy sản Minh Phú (Minh Phú) liên tục dính vào cáo buộc lẩn tránh thuế chống bán phá giá tại thị trường Mỹ. Trong quý 2/2019, Minh Phú dính vào cáo buộc lẩn tránh thuế chống bán phá giá tại thị trường Mỹ.
Đầu tháng 6/2019, nghị sỹ Mỹ Darin LaHood gửi thư yêu cầu Cục Hải quan và Biên phòng Mỹ tiến hành điều tra Minh Phú về cáo buộc "vua tôm" Việt Nam nhập khẩu tôm đông lạnh từ Ấn Độ, chế biến ở mức tối thiểu và xuất sang Mỹ với xuất xứ tôm Việt Nam.
Tháng 1/2020, Minh Phú nhận được thông tin qua báo chí về việc Cục Hải quan và Biên phòng Mỹ đã chính thức khởi xướng điều tra lẩn tránh thuế chống bán phá giá đối với MSeafood, công ty con của Minh Phú tại Mỹ (điều tra EAPA).
Đồng thời, Cục Hải quan và Biên phòng Mỹ cũng áp dụng biện pháp tạm thời sơ bộ theo cáo buộc của tổ chức Ủy ban thực thi thương mại tôm Mỹ (AHSTEC).
Ngày 13/10/2020, Cơ quan Hải quan Mỹ (CBP) đã dựa theo Đạo luật Thực Thi và Bảo Hộ (EAPA) và công bố kết luận: sản phẩm tôm đông lạnh do Minh Phú xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ là đối tượng chịu thuế theo Lệnh thuế chống bán phá giá đối với tôm Ấn Độ, vì Minh Phú đã không cung cấp được đầy đủ bằng chứng như yêu cầu bởi CBP, để chứng minh được rằng công ty không sử dụng tôm có nguồn gốc từ Ấn Độ để xuất khẩu đi Hoa Kỳ.
Vì vậy, CBP nhận định rằng Minh Phú đã vi phạm lệnh thuế chống bán phá giá đang áp trên tôm Ấn Độ. Quyết định này được đưa ra sau một cuộc điều tra được thực hiện bởi CBP. Theo đó, sản phẩm tôm xuất khẩu bởi Minh Phú từ Việt Nam đến Hoa Kỳ sẽ phải chịu lệnh thuế chống bán phá giá như tôm Ấn Độ (khoảng 10%).
Trước quyết định này, Tập đoàn thủy sản Minh Phú đã khẳng định sẽ kháng cáo quyết định của Mỹ khi bị áp thuế chống bán phá giá như tôm Ấn Độ.
Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), Mỹ là thị trường dẫn đầu về nhập khẩu tôm Việt Nam, chiếm tỉ trọng gần 24%. Trong 9 tháng đầu năm 2020, xuất khẩu tôm sang Mỹ đạt 634,4 triệu USD, tăng 33% so với cùng kỳ năm ngoái.
Mặc dù dịch Covid-19, xuất tôm Việt Nam sang Mỹ vẫn tăng trưởng dương trong cả tất cả các tháng của 9 tháng đầu năm nay để phục vụ phân khúc bán lẻ.
Một trong những nguyên nhân khiến xuất khẩu tôm sang Mỹ tăng trưởng tốt năm nay nhờ thuế chống bán phá giá hiện tại được áp ở mức 0% đối với 31 doanh nghiệp. Riêng Minh Phú, từ chỗ không bị áp thuế chống bán phá giá lại vướng vào vụ điều tra lẩn tránh thuế chống bán phá giá và kết quả công bố bất lợi.
Chồng bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ là ba công cụ mà các nước nhập khẩu thời gian qua đã áp dụng vào hàng hóa thủy sản Việt Nam.
Theo thống kê, với ngành thủy sản, các vụ kiện chống bán phá giá đối với cá da trơn và tôm của Việt Nam xảy ra như cơm bữa ở rất nhiều thị trường. Chỉ riêng tại Mỹ, trong 10 năm (từ 1995 đến 2014) đã có tới 8 vụ điều tra chống phá giá và trợ cấp với các sản phẩm xuất xứ từ Việt Nam.
Thực tế cho thấy, công cụ phòng vệ thương mại thủy sản đã được phía Mỹ từng bước áp dụng với các sản phẩm của Việt Nam, và điều này cũng có thể xảy ra ở một số thị trường khác.
Thực chất, đây là những công cụ chi phối mạnh mẽ thị trường và nguồn cung; Bởi, mức thuế suất cao có thể làm cho các nhà xuất khẩu nản chí và bỏ cuộc, trong bối cảnh cạnh tranh khốc liệt và lợi nhuận trong kinh doanh mặt hàng thủy sản không còn hấp dẫn như trước đây.
Theo số liệu được công bố, có tới 66% doanh nghiệp được hỏi không biết hoặc biết sơ qua các nội dung cơ bản của các hiệp định trong khuôn khổ Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Có tới 81,4% doanh nghiệp không biết hoặc biết quá ít về các vấn đề đang được tiếp tục đàm phán trong khuôn khổ WTO. Đây là thực trạng đáng lo ngại đối với các doanh nghiệp Việt Nam.
Một số ý kiến cho rằng, các doanh nghiệp Việt Nam rất ngại các vụ kiện tụng và hầu như nếu không có sự nỗ lực từ phía Nhà nước và các tổ chức xã hội nghề nghiệp thì họ không thể đơn phương theo đuổi các vụ kiện để bảo vệ chính mình.
Đội ngũ pháp lý của các doanh nghiệp hiện cũng rất mỏng, thậm chí không có. Một số luật sư cho rằng “Cần phải có một đội ngũ luật sư, các luật gia am hiểu và có uy tín trong lĩnh vực phòng vệ thương mại để sẵn sàng bảo vệ quyền lợi cho các nhà xuất khẩu Việt Nam”.
Điều đáng lo ngại nhất là Việt Nam về cơ bản vẫn là nước nhập siêu, nhưng việc sử dụng các biện pháp phòng vệ để bảo vệ các nhà sản xuất, bảo vệ các sản phẩm trong nước còn rất sơ sài, bị động. Các phi vụ nhập khẩu như cá tầm từ Trung Quốc hay nhập tôm từ Ấn Độ với giá rất thấp so với trong nước đều dấy lên sự lo ngại trong dư luận.
Nhiều mặt hàng, nhất là nguồn nguyên liệu đầu vào, trong khi ở trong nước vẫn sản xuất được, cũng là yếu tố kìm hãm sản xuất trong nước. Tính trung bình mỗi năm Việt Nam cần khoảng 4,4 triệu tấn thức ăn nuôi trồng thủy sản, với nguồn nguyên liệu nhập khẩu khoảng 80% là từ nước ngoài.
Bên cạnh nhập khẩu nguyên liệu thức ăn, Việt Nam còn nhập khẩu con giống, thuốc bảo vệ thực vật, các loại phụ gia, các thiết bị máy móc, các quy trình công nghệ… Rõ ràng, việc quan tâm đến phòng vệ thương mại thủy sản cũng là vấn đề đáng quan tâm, bên cạnh việc đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu. Mục đích của quá trình này là đảm bảo sự lành mạnh cho thị trường, tránh việc bán phá giá, triệt tiêu đối thủ để chiếm lĩnh thị trường. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc biệt các doanh nghiệp trong nước sẽ khó có cơ hội tồn tại nếu như thị trường nhập khẩu không được quản lý và điều tiết phù hợp.
Nhiều người ví toàn cầu hóa là quá trình thực hiện “thế giới phẳng”. Trong đó, hàng hóa, các sản phẩm sẽ nhanh chóng tràn ngập và văn hóa tiêu dùng sẽ tăng trưởng rất nhanh khi hàng rào về thuế ngày càng lỏng lẻo hơn, cũng như việc chia sẻ lợi ích cũng sẽ được phân chia rộng rãi hơn trên toàn cầu.
Song song với quá trình này, việc giữ bản sắc và bảo vệ sản xuất nội địa được đặt ra khẩn thiết hơn bao giờ hết. Các cuộc đấu trí trên phương diện phòng vệ thương mại sẽ vẫn tiếp tục diễn ra. Các doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động hơn với vấn đề phòng vệ thương mại, sử dụng linh hoạt công cụ này trong quá trình hội nhập.