Sách Đại Nam liệt truyện (Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, Viện sử học phiên dịch, NXB Thuận Hóa 2006), tập 1, phần truyện các bề tôi, khen ngợi Nguyễn Hữu Dật là người “sáng suốt có tài lược”, ví như Gia Cát Lượng nhà Thục thời Tam Quốc.
“Ban đầu từ làm Văn chức, ra làm Giám chiến, danh vọng đã vang dậy rồi. Đến lúc làm tướng, nhiều lần bày mưu cao, đánh đâu thắng đó, người đương thời rất nể trọng thường ví với những bậc quân sư nổi tiếng như Khổng Minh, Lưu Bá Ôn. Sau khi ông mất, dân Quảng Bình thương và nhớ, gọi là “Bồ Tát”, lập đền thờ ở xã Thạch Xá”, Liệt truyện viết.
Sách này cũng kể những câu chuyện về mưu trí của Nguyễn Hữu Dật và việc ông giỏi xem thiên văn để tận dụng thời tiết khi đánh trận.
Nguyễn Hữu Dật quê ở huyện Tống Sơn, nay là huyện Hà Trung tỉnh Thanh Hóa. Ông là con Tham tướng Chưởng cơ Nguyễn Triều Văn, được sinh ra ở Thăng Long năm 1603, sau đó cha ông đem gia đình vào nam theo chúa Nguyễn Hoàng từ năm 1609. Lúc mới lên vài tuổi, cùng đàn trẻ chơi đùa, ông đã thích bày trận, đặt cờ chia quân, tự nhận mình là đại tướng. Triều Văn mừng thầm cho rằng con mình ngày sau tất thành người tài, bèn cho đi học. Gặp được dị nhân dạy cho binh pháp, bởi thế nên ông học càng tiến bộ.
Đời chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên, năm 1619, Nguyễn Hữu Dật mới có 16 tuổi, vì có văn học, được bổ Văn chức. Từ năm 1627, ông được bổ làm Giám chiến đi theo Tiết chế Tôn Thất Vệ đánh nhau với quân Trịnh.
Khi quân Trịnh Tráng rút về, ông cùng Đào Duy Từ coi việc đắp lũy Trường Lệ (tức Lũy Thầy nổi tiếng). Năm 1668, Nguyễn Hữu Dật cùng cha là Nguyễn Triều Văn đã đánh một trận nổi tiếng thắng quân Trịnh, nên năm sau, ông được thăng làm Cai cơ, Ký lục doanh Bố Chính. Ở tuyến đầu đối đầu với quân Trịnh, ông dùng nhiều mưu kế, khéo léo sử dụng nội ứng làm rối loạn quân đối phương.
Khi Nguyễn Hữu Tiến làm Tiết chế, Nguyễn Hữu Dật cũng làm Đốc chiến, đã từng đánh ra Bắc, chiếm 7 huyện phía Nam Nghệ An, lấy sông Lam làm ranh giới Nam - Bắc một thời gian rồi mới rút về.
Có hai câu chuyện ghi về việc Nguyễn Hữu Dật giỏi xem thiên văn và khéo léo tận dụng thời tiết để đánh trận.
Chuyện đầu tiên diễn ra mùa thu năm 1657, khi chúa Trịnh Căn cho rằng tướng Thắng Nham đóng quân ở lũy Đồng Hôn, đất ấy thấp và ẩm ướt, sợ đến mùa thu lụt, sẽ bị quân Nam đánh úp, nên muốn dời đồn đến chân núi Thổ Sơn.
Người do thám đem việc ấy về báo. Hữu Dật bảo Hữu Tiến rằng: “Tôi đã tính đến ngày 25 là ngày Quý Hợi, sao Chẩn gặp triều độ mặt trời, tất có gió dữ mưa to, lại có khí đen suốt đến phần sao Đẩu. Mây trắng che vào chấn cung, phương bắc tức có nước lụt. Ta nhân dịp này, đánh úp đồn của Thắng Nham, tất là phá được”.
Đến ngày ấy, quả nhiên mưa to gió dữ, nước sông lên to. Hữu Dật đem quân thẳng đến Đồng Hôn, theo nước lụt, đánh phá đồn ấy.
Thắng Nham lên Thổ Sơn, trốn chạy, quân chúa Nguyễn thu được khí giới rất nhiều. Hữu Tiến mừng bảo Hữu Dật rằng: “Ông tính giỏi như thần vậy”. Hữu Dật khiêm tốn nói: “Nhờ oai linh chúa thượng và sức các tướng, tôi có giỏi gì đâu”.
Chuyện thứ hai, diễn ra vào mùa thu năm sau, tức năm Mậu Tuất (1658), khi Nguyễn Hữu Tiến muốn quấy rối quân Trịnh, chia quân lần lượt ra các huyện Đông Thành, Hưng Nguyên và Nam Đàn (Nghệ An) đánh phá. Quân Trịnh phòng thủ nghiêm cẩn, nên quân chúa Nguyễn phải rút về.
Chợt có tên Phạm Phượng đến quân thứ Hữu Tiến nói: “Năm ngoái Thắng Nham giữ Đồng Hôn, bị Đốc chiến (Nguyễn Hữu Dật) đánh thua, Trịnh Căn sai Tham đốc là Vân Khả lĩnh quân thay giữ. Vân Khả là người tham bạo, có thể tìm cách đánh lấy được”.
Hữu Tiến sai người nói với Hữu Dật. Hữu Dật mừng nói: “Trước đây ta xem thiên văn thấy mây đen che vào sao Khôi, ngày 11, Mậu Thìn, là ngày lục long, tất có mưa lụt. Nhân lúc nước lên to mà đánh, tất là thắng hắn”.
Hữu Dật bèn hẹn Hữu Tiến hội quân để đánh. Đến ngày ấy, quả nhiên mưa to, Hữu Dật trước đó đã đem thuyền quân ập đến lũy Đồng Hôn, đánh gấp. Quân Trịnh kinh sợ tan vỡ, Vân Khả trốn về Yên Trường, Hữu Tiến dẫn quân chiến thắng trở về.
Ngoài ra, Nguyễn Hữu Dật còn nhiều lần sử dụng mưu kế khác mà sử quan nhà Nguyễn ghi lại, có ý so sánh với Gia Cát Lượng nhà Thục Hán. Như năm 1660, khi Nguyễn Hữu Tiến bất hòa với Nguyễn Hữu Dật, giả hẹn với Hữu Dật cùng xuất quân đánh quân Trịnh rồi âm thầm rút quân về châu Nam Bố Chính.
Đêm ấy Hữu Dật mặc áo giáp ngồi đợi, đến lúc biết Hữu Tiến lui quân, thì quân Trịnh đã đến gần ngoài quân doanh rồi. Hữu Dật bèn sai ca hát mua vui, nhưng bí mật sai chư quân dần dần rút về. Trịnh Căn nghe trong doanh trại Hữu Dật tiếng đàn sáo, nghi ngờ không dám đến gần. Hữu Dật rút được toàn quân trở về đến Hoành Sơn, mới hợp binh với Hữu Tiến.
Để ngăn quân Trịnh truy đuổi, Hữu Dật lại sai người kéo cành cây, tung bụi lên ở trong rừng và treo cờ lên ngọn cây để làm nghi binh. Quân Trịnh sợ có quân phục, bèn rút về.
Mùa đông năm 1661, Trịnh Căn lại đem quân xâm lấn vào nam, Hữu Dật làm kế vườn không nhà trống đưa dân châu Nam Bố Chính vào trong đại lũy để cố thủ, quân Trịnh cũng không thể tấn công được.
Năm 1664, Nguyễn Hữu Tiến bị ốm, xin về nghỉ, Nguyễn Hữu Dật được cử làm Chưởng doanh, Tiết chế đạo Lưu Đồn. Sau trận đánh mùa đông năm 1672, quân Trịnh phải rút quân về, hai bên Trịnh – Nguyễn lấy sông Gianh làm giới hạn Nam Bắc, kết thúc cuộc chiến.
Năm 1681, Nguyễn Hữu Dật qua đời, thọ 78 tuổi, được chúa Nguyễn phong là Tán trị Tĩnh nạn công thần, Đặc tiến Phụ quốc thượng tướng quân, Cẩm y vệ Tả quân Đô đốc phủ Chưởng phủ sự, Chiêu quận công, thụy là Cẩn Tiết.
Sau khi vua Gia Long lên ngôi, đã phong Nguyễn Hữu Dật là Thượng đẳng công thần, cho thờ phụ vào Thái Miếu, ấm thụ cho một người trong dòng dõi làm Đội trưởng được thế tập để coi việc thờ cúng, cấp cho 15 mẫu tự điền và 6 người coi mộ.
Năm Gia Long thứ 9 (1810) lại cho thờ vào miếu Khai quốc công thần, truy phong ông là Đặc tiến Tráng vũ tướng quân, Hữu quân Đô thống phủ Chưởng phủ sự Thái phó, đổi thụy là Nghị Vũ, tước Tĩnh quốc công, vẫn thờ phụ vào Thái Miếu. Đến năm Gia Long thứ 16 (1835), vua lại cho ông được thờ vào Vũ Miếu.
Nguyễn Hữu Dật có các con trai là Nguyễn Hữu Hào, Nguyễn Hữu Dũng và Nguyễn Hữu Cảnh, đều là danh tướng của chúa Nguyễn, trong đó Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh là người có công rất lớn trong việc mở mang bờ cõi.