Cá ngạnh có tên khoa học là Cranoglanis henrici thuộc bộ cá nheo Silluriformes. Trên thế giới, cá ngạnh Cranoglanis henrici được phân bố ở Thái Lan, Philippin, Indonesia và Trung Quốc.
Ở Việt Nam, loài cá ngạnh này thường sống thành từng đàn và thường thấy ở vùng hạ lưu sông ở các tỉnh phía Bắc, tập trung nhiều ở sông Bằng Giang, tỉnh Cao Bằng; sông Kỳ Cùng, tỉnh Lạng Sơn và sông Chảy, hồ Thác Bà.
Cá ngạnh có thân tròn trơn láng, phần đầu dẹp bằng, thân và đuôi dẹp bên; kích thước thuộc cỡ trung bình, con lớn nhất nặng khoảng 2,5kg; là loài cá ăn tạp nên phổ thức ăn rất rộng.
Thành phần thức ăn của loài cá ngạnh đa dạng gồm thực vật và động vật như (lá, hạt, quả, mùn bã hữu cơ, ấu trùng, côn trùng, tôm cua, cá nhỏ...); thức ăn được thay đổi theo kích thước cá và theo mùa vụ.
Rất nhiều ngư dân sống trong khu vực sông Lô, sông Gấm, sông Hồng đã mưu sinh bằng nghề chuyên đánh bắt loài cá quý hiếm này.
Có thể thấy, với tốc độ khai thác cá như vậy thì sản lượng cá ngạnh trên các sông, hồ ngày càng giảm mạnh. Đứng trước thực trạng đó, năm 2013, Trung tâm Ứng dụng, Kỹ thuật, Thông tin Khoa học và Công nghệ tỉnh Yên Bái (Trung tâm) đã triển khai Dự án "Nuôi thử nghiệm cá ngạnh Cranoglanis henrici trong lồng trên hồ Thác Bà", quy mô hơn 2.000 con cá giống.
Trong 2 năm triển khai dự án (2013-2014), kết quả mà dự án mang lại đó là bước đầu đã xây dựng được quy trình nuôi cá ngạnh thương phẩm trong lồng với nguồn nước hồ tự nhiên, góp phần khai thác hiệu quả điều kiện tự nhiên của vùng hồ Thác Bà.
Đồng thời dự án góp phần bảo tồn nguồn gen quý bản địa, làm cơ sở khoa học để thực hiện các nghiên cứu tiếp theo đó là tuyển chọn những con cá ngạnh trội về tăng trưởng và hình dạng, tiếp tục nuôi dưỡng để làm cá hậu bị góp phần hoàn thiện quy trình về nuôi và sản xuất giống cá ngạnh tại địa phương.
Gia đình ông Lê Văn Thư, thôn Mạ, xã Vĩnh Kiên, huyện Yên Bình hiện đang nuôi hơn 40 lồng cá, trong đó chỉ có 10 lồng cá ngạnh, song giá trị kinh tế từ cá ngạnh lại chiếm tới 50% nguồn thu của gia đình ông.
Ban đầu từ một mô hình thử nghiệm với số lượng 3 - 4 lồng nuôi cá bằng lồng khung tre, đến năm 2017 gia đình ông Thư đã đầu tư chuyển sang nuôi bằng lồng khung sắt quây lưới đặc dụng. Loại lồng này có ưu điểm chắc chắn hơn, thời gian sử dụng gấp ba lần lồng tre, dễ vệ sinh và theo dõi cá.
"Sau khi được tham dự các lớp tập huấn về kỹ thuật chăm sóc cá ngạnh do Trung tâm tổ chức tôi nhận thấy nuôi cá chỉ có kinh nghiệm thôi chưa đủ, mà còn cần phải áp dụng đúng kỹ thuật, phải tuân thủ theo hướng dẫn như: nuôi cá đúng mật độ từ 8 đến 10 con/m3, lồng cá không quá sâu, sử dụng loại thức ăn chính là cám công nghiệp...", ông Thư nói.
Ông Thư cho biết thêm, bên cạnh đó bổ sung thêm thức ăn tự chế có tại vùng hồ để đàn cá tăng trưởng nhanh, giữ vệ sinh môi trường khu vực nuôi an toàn... cá mới không bị nhiễm các loại bệnh...
Mô hình nuôi cá của gia đình bà Nguyễn Thị Nhung, xã Vĩnh Kiên trước đây chỉ nuôi thử, sau khi thấy có hiệu quả gia đình bà đã nuôi thêm.
Hiện nay gia đình bà đang nuôi khoảng 3.000 đến 4.000 con cá ngạnh. Bà Nhung cho biết: "Giống cá ngạnh có ưu điểm là dễ nuôi, ăn tạp và nếu áp dụng đúng kỹ thuật chăm sóc, phòng trừ bệnh thì hiệu quả rất cao… Thời gian tới, gia đình tôi dự định mở rộng quy mô, tăng số lượng nuôi cá ngạnh lên nữa".
Đặc biệt khuyến khích nhân dân nuôi các loại cá đặc sản như cá ngạnh, cá nheo...".
Bởi theo ông Chiến, qua Dự án triển khai thực tế chính quyền xã thấy thực sự hiệu quả của nuôi cá ngạnh.
Mặt khác người dân trong xã đã được tập huấn kỹ thuật chăm, nuôi cá ngạnh đúng quy trình, phù hợp, có sự hỗ trợ của cán bộ kỹ thuật... đã tạo động lực cho người dân phát triển,. Nhiều hộ dân đã có thu nhập hiệu quả từ việc nuôi giống cá ngạnh tại địa phương.
Từ cách chăn nuôi truyền thống dần dần người dân đã biết áp dụng khoa học - kỹ thuật vào nuôi cá. Từ chỗ chỉ chú trọng vào thức ăn, người dân giờ đây còn chú trọng đến từng khâu trong quá trình sản xuất như lựa chọn con cá ngạnh giống, quản lý dịch bệnh, quản lý nguồn nước, vệ sinh môi trường chăn nuôi...