Theo đó, mức thuế CBPG được tiếp tục áp dụng riêng biệt cho một số công ty là từ 2,56 - 34,27%; riêng các công ty còn lại của Hàn Quốc bị áp thuế là 19,25%. Mức thuế này cũng tương tự như đợt áp dụng từ cuối tháng 10/2019.
Được biết, quyết định nói trên sẽ có hiệu lực từ ngày 25/4/2021. Bên cạnh đó, Bộ Công thương cũng có quyết định về kết quả rà soát lần thứ nhất việc áp dụng biện pháp CBPG một số sản phẩm nhôm có xuất xứ từ Trung Quốc.
"Mức thuế CBPG được áp dụng đối với một số sản phẩm nhôm, hợp kim nhôm hoặc không hợp kim ở dạng thanh, que và hình đã được đùn ép, đã hoặc chưa xử lý bề mặt, đã hoặc chưa được gia công thêm nhập khẩu vào Việt Nam với mức thuế từ 4,39 - 35,58%. Số lượng nhà sản xuất, xuất khẩu Trung Quốc bị áp thuế CBPG là 18 công ty", đại diện Bộ Công Thương cho hay.
Trước đó, Bộ Công Thương bắt đầu tiến hành vụ việc điều tra vào tháng 10/2018 trên cơ sở kết quả thẩm định hồ sơ yêu cầu áp dụng biện pháp chống bán phá giá của đại diện ngành sản xuất trong nước nộp vào tháng 8/2018.
Sau gần 8 tháng điều tra sơ bộ, kết quả cho thấy, mặc dù biện pháp tự vệ dưới hình thức hạn ngạch thuế quan đang được áp dụng nhưng lượng hàng hóa nhập khẩu trong hạn ngạch có dấu hiệu bán phá giá với biên độ khá cao, từ 3,45% đến 34,27%, tiếp tục gây ra đe dọa thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất thép phủ màu trong nước.
"Hành vi bán phá giá nói trên tiếp tục gây ra sức ép đáng kể cho các chỉ số hoạt động của ngành sản xuất trong nước, thể hiện ở các tiêu chí như sản lượng sản xuất, lượng bán hàng, doanh thu, lợi nhuận, thị phần, hàng tồn kho có nhiều biến động trong giai đoạn điều tra, đặc biệt trong giai đoạn 7 tháng cuối năm 2018 đến nay, các chỉ số này đều cho thấy xu hướng suy giảm rõ rệt, rất nhiều các doanh nghiệp sản xuất trong nước thua lỗ, nhiều dây chuyền sản xuất phải ngừng hoạt động và số lượng lớn lao động đã phải nghỉ việc", Bộ Công Thương cho hay.
Khi quyết định áp dụng biện pháp chống bán phá giá tạm thời, Bộ Công Thương cho biết đã xem xét, cân nhắc ý kiến của các bên liên quan trong vụ việc và các cơ quan nhà nước có liên quan khác cũng như dựa trên thông lệ áp dụng của nhiều nước thành viên khác của WTO.