Trong bối cảnh tác động của dịch Covid-19, ông có thể có biết những khó khăn của các doanh nghiệp ngành chăn nuôi và người chăn nuôi nói chung, chăn nuôi gia cầm nói riêng là gì?
-Chưa bao giờ các doanh nghiệp nông nghiệp nói chung, doanh nghiệp ngành chăn nuôi đang gặp phải những khó khăn như hiện nay khi phải đối mặt với 2 cuộc khủng hoảng lớn: Một là tác động của dịch Covid-19, hai là khủng hoảng về mặt thị trường.
Có thể thấy, suốt 1 năm nay giá gia cầm luôn ở mức thấp dưới giá thành, khảo sát cho thấy giá bình quân nhiều mặt hàng trong tháng 6/2021 đã giảm 20 – 30% so với cùng kỳ năm 2020.
Thời điểm hiện nay, giá một số sản phẩm gia cầm đang có chiều hướng tăng, tuy nhiên mức tăng này chưa bù đủ với mức tăng của chi phí đầu vào, đặc biệt là chi phí thức ăn chăn nuôi.
Vì vậy mới có hiện tượng dù giá gà thịt đang bắt đầu có dấu hiệu tăng từ 5 – 10% so với tháng 5 nhưng việc tái đàn của hộ chăn nuôi và doanh nghiệp vẫn đang cầm chừng vì giá thức ăn chăn nuôi đang tăng quá cao, giá sản phẩm bán ra không bù được chi phí đầu vào.
Trong cuộc họp giữa Bộ NNPTNT và các hiệp hội ngành hàng rà soát các văn bản quy phạm pháp luật để từ đó có sửa đối, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn, Hiệp hội Chăn nuôi gia cầm Việt Nam có kiến nghị gì, thưa ông?
-Thời gian qua, Hiệp hội Chăn nuôi gia cầm Việt Nam cũng đã có văn bản kiến nghị với Thủ tướng và 6 bộ ngành đề xuất 7 nhóm giải pháp tháo gỡ khó khăn.
Trước hết là tháo gỡ khó khăn về các văn bản pháp quy. Tôi lấy ví dụ, Luật Chăn nuôi ban hành năm 2018, kèm theo là Nghị định 13 và hàng loạt thông tư của Bộ NNPTNT nhưng quá trình thực hiện gặp nhiều khó khăn.
Thứ nhất, do một số quy định trong luật và nghị định chưa phù hợp với thực tế, chưa đầy đủ. Ví dụ, một khái niệm bao trùm trong Luật Chăn nuôi và Nghị định 13 đó là khái niệm về khu dân cư, để quy định khu vực nào được chăn nuôi chưa rõ ràng nên doanh nghiệp, hộ chăn nuôi lúng túng.
Trong Luật Chăn nuôi có đưa ra khái niệm về đơn vị vật nuôi, mật độ nuôi. Đây là những khái niệm mới, phù hợp với thông lệ quốc tế, rất tiếc quy định trong luật lại chưa phù hợp với thực tiễn.
Đơn cử, theo quy định tại Nghị định 13 quy định mật độ chăn nuôi như sau: 1ha đất nông nghiệp quy đổi ra 500kg khối lượng sống của vật nuôi, như vậy có thể hiểu rằng 1ha đất nông nghiệp chỉ nuôi được 1 con trâu, 1 con bò.
Nếu áp theo quy định này thì nhiều địa phương, nhất là khu vực Đồng bằng sông Hồng, Đồng bằng sông Cửu Long phải giảm tổng đàn gia súc gia cầm hiện nay, bởi không phù hợp thực tế Việt Nam.
Còn quy định về nhà nuôi yến vẫn còn bất cập, khái niệm đảm bảo về tiếng ồn, quy định xây dựng nhà yến, xử lý môi trường chưa rõ ràng nên xảy ra khiếu kiện giữa người nuôi yến và người dân trong khu vực.
Tổ yến là mặt hàng có giá trị, có khả năng xuất khẩu cao nên ngành chức năng cần sớm tháo gỡ khó khăn, tránh quy định chồng chéo.
Hay khái niệm chăn nuôi nhỏ lẻ chưa đưa vào trong luật nhưng hiện nay các địa phương dùng khái niệm này rất nhiều. Chính vì vậy, dù đã đưa vào thực thi gần 2 năm nhưng hiệu quả không cao. Chúng tôi kiến nghị nên sửa đổi Nghị định 13.
Bên cạnh đó, chúng tôi cũng nhận thấy, một số quy định về tiêu chuẩn, quy chuẩn không phù hợp với thực tiễn sản xuất, thậm chí gây cản trở hoạt động doanh nghiệp.
Tôi lấy ví dụ quy định tại Thông tư 04 của Bộ NNPTNT thực hiện công bố hợp quy thức ăn chăn nuôi và thuốc thú y.
Có những vấn đề gây khó dễ, tốn kém thời gian, tiền bạc của doanh nghiệp vì thực chất câu chuyện hợp chuẩn, hợp quy là quản lý chất lượng, mà quản lý chất lượng sản phẩm thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y đã có những quy định khác cao hơn nhiều.
Trên thế giới không có ai quy định công bố hợp quy về thức ăn chăn nuôi và thuốc thú y. Do vậy, tôi đề nghị bỏ công bố hợp quy với thức ăn chăn nuôi và thuốc thú y chứ không phải hoãn như hiện nay.
Thực tế sản xuất cho thấy đang nổi lên vấn đề vật tư đầu vào cho chăn nuôi đang tăng quá cao, ông thấy vai trò quản lý của các ngành chức năng trong việc này như thế nào?
-Đúng là câu chuyện nóng hiện nay với ngành chăn nuôi là chi phí đầu vào, đặc biệt là thức ăn chăn nuôi tăng cao so với trước đây.
Hiện, giá thức ăn chăn nuôi đã tăng 30 – 35%, xu hướng còn tiếp tục tăng. Tại sao giá thức ăn chăn nuôi lại tăng cao như vậy?.
Vì phần lớn nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi của chúng ta phải nhập khẩu từ nước ngoài. Năm 2020, cả nước nhập 20,4 triệu tấn nguyên liệu thức ăn chăn nuôi với kim ngạch 6 tỷ USD.
Trong đó nhiều mặt hàng nguyên liệu phải nhập khẩu 80 – 90% nên khi giá nguyên liệu của thế giới biến động do mất mùa, giảm diện tích hay đứt gãy chuỗi cung ứng đã khiến giá thức ăn chăn nuôi của chúng ta tăng vọt.
Để cạnh tranh thì các doanh nghiệp sản xuất thức ăn phải giảm giá bán, dẫn đến chất lượng giảm. Nhiều doanh nghiệp của chúng tôi đã phản ánh chi phí tăng trọng 1kg sản xuất của gà tăng 20% về số lượng thức ăn. Điều đó chứng tỏ chất lượng thức ăn chăn nuôi có vấn đề.
Ở đây đang thiếu hẳn một chiến lược phát triển bền vững nguyên liệu thức ăn chăn nuôi. Mặc dù chiếm vị trí nhất nhì Đông Nam Á nhưng thực chất ngành chăn nuôi vẫn là ngành gia công, ăn đong nguyên liệu của thế giới.
Vì vậy, chúng tôi kiến nghị nên có chiến lược phát triển nguyên liệu thức ăn chăn nuôi, tránh phụ thuộc nhập khẩu như hiện nay.
Xin cảm ơn ông!