Khi Giao Châu đặt dưới ách thống trị của nhà Lương. Ở Thanh Hoa có ông Dương Đức Minh giỏi về phong thủy, thường hay nay đây mai đó để xem các cuộc đất.
Khi đến xứ Hổ Kì (nay thuộc thôn Báo Văn, xã Đồng Văn, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc), ông Minh đã gặp và nên duyên với người con gái trong làng là Nguyễn Thị Hằng. Hai vợ chồng cùng chung sống êm ấm.
Một lần ông Minh đi đặt đất ở huyện Bất Bạt (thuộc Hà Nội ngày nay). Bà Hằng ở nhà, trong một đêm mưa to nằm mộng thấy một con rồng lớn phủ lên người, sau đó thì thụ thai. Ngày mồng 4 tháng Giêng bà sinh ra một người con gái, trên thân có những vết như khoang rắn, nên đặt tên là Khoan Khoáng.
Ông Dương Đức Minh sau lần đi ấy không còn thấy quay trở về, bà Hằng tự mình nuôi con khôn lớn. Khoan Khoáng là người dũng lược, ý chí khác người nên ai ai cũng nể phục.
Trước sự đô hộ của nhà Lương, Khoan Khoáng tập hợp trai tráng trong làng nổi lên chống lại và nhanh chóng trở thành một thủ lĩnh nổi tiếng. Với thời ấy việc lớn liên quan đến Xã Tắc và cầm quân đều do đàn ông gánh vác, vì thế một nữ nhi làm thủ lĩnh một đội quân toàn trai tráng hẳn phải có tài năng hơn người.
Cuối năm 541 ở chùa Diên Táo (xã Đạo Đức, huyện Bình Xuyên), Lý Bí dựng cờ khởi nghĩa, nhiều hào kiệt cũng như thủ lĩnh các nghĩa quân khác tụ về dưới cờ nghĩa, trong đó có cha con Triệu Túc và Triệu Quang Phục, Phạm Lương.
Từ làng Báo Văn, thủ lĩnh Khoan Khoáng cùng các trai tráng trong làng cũng theo về cờ nghĩa.
Khoan Khoáng trở thành nữ tướng hiếm hoi trong hàng ngũ nghĩa quân, nhưng không phải là nữ tướng duy nhất. Con gái của Phạm Lương là Phạm Thị Toàn cũng là một nữ dũng tướng kiệt xuất.
Khi nghe tin Lý Bí dựng cờ nghĩa, Phạm Lương vốn có chí lớn phục quốc đã lâu, nay có cơ hội thì liền bán hết tài sản, cùng con gái là Phạm Thị Toàn tham gia nghĩa quân. Người con gái này trở thành dũng tướng kiệt xuất bậc nhất, hết lên bắc xuống nam tham gia hầu hết các trận đánh quan trọng.
Lý Bí chia quân tiến đánh thành Long Biên (sau này đổi tên thành Thăng Long), Thứ sử Tiêu Tư thua trận phải bỏ chạy về Quảng Châu. Lý Bí chia quân đánh khắp nơi thu lại được toàn bộ vùng Giao Châu vào năm 542.
Không muốn mất Giao Châu, nhà Lương cho quân sang đánh chiếm. Lý Bí cho quân đến bán đảo Hợp Phố (khu vực huyện Hợp Phố thành phố Bắc Hải tỉnh Quảng Tây và bán đảo Lôi Châu tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc hiện nay) đón đánh. Nữ tướng Phạm Thị Toàn dẫn quân tiến đánh, quân Giao Châu thắng lớn, quân Lương 10 phần thì chết 6, 7 phần, hoàn toàn tan rã.
Phía nam, quân Lâm Ấp nghe tin nhà Lương tiến đánh Giao Châu từ phía bắc, thì nhân cơ hội này cũng tiến đánh Giao Châu từ phía nam. Quân Lâm Ấp vượt dãy Hoành Sơn chiếm quận Nhật Nam (Quảng Bình ngày nay), rồi kéo quân tiến đánh quận Cửu Đức (Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay).
Lý Bí liền sai tướng Phạm Tu xuống phía nam đánh Lâm Ấp. Nữ tướng Phạm Thị Toàn vừa đánh tan quân Lương ở phía bắc xong cũng xuống nam, tiếp tục lập công lớn đánh bại quân Lâm Ấp.
Đất nước thanh bình, Mùa xuân năm 544, Lý Bí lên ngôi vua, xưng là Lý Nam Đế, định đô ở cửa sông Tô Lịch, đặt tên nước là Vạn Xuân với mong muốn Giang Sơn Xã Tắc mãi mãi là mùa xuân.
Lý Bí thành lập Triều đình với hai ban văn võ, nữ tướng Khoan Khoáng được phong trấn giữ ải phía bắc.
Lúc này Lý Bí nhớ đến Phạm Thị Toàn, vị nữ tướng luôn dẫn đầu cầm quân xông trận, không chỉ nết na xinh đẹp mà võ công cũng là đệ nhất, trận nào cũng đi đầu lập công lớn.
Lý Nam Đế ngỏ ý muốn Phạm Thị Toàn vào cung làm Vương Phi, cùng mình hưởng cảnh thái bình.
Thế nhưng vị nữ tướng này đã từ chối: “Vì sự nghiệp phục quốc mà phận gái liễu bồ nghĩ cũng phải góp phần gánh vác, đó là tâm nguyện lớn lao không mong gì hơn. Nay việc lớn đã thành, chỉ xin cho thiếp ở lại chốn quê hương chăm sóc phần mộ cha mẹ, vui với cảnh ruộng đồng, hàng ngày nghe câu kinh tiếng kệ!”
Biết không thể gượng ép, nhà Vua đành chấp thuận, Phạm Thị Toàn về quê lập chùa tịnh tu cho đến lúc mất. Sau khi bà qua đời, người dân đã lập đền thờ tôn bà làm Thành Hoàng.
Tháng giêng năm 546, nhà Lương cử danh tướng Trần Bá Tiên đem quân tiến đánh Vạn Xuân, cuộc chiến diễn ra ác liệt ở Chu Diên (phía đông Hà Nội ngày nay, giáp ranh giữa các tỉnh Bắc Ninh, Hải Dương và Hưng Yên), Lý Nam Đế thua trận rút về sông Tô Lịch.
Tại Sông Tô Lịch, quân Vạn Xuân lập các chiến lũy một cách vội vàng, nên khi quân Lương tiến đánh không thể chống nổi, các tướng Tinh Thiều và Phạm Tu đều tử trận.
Sau một loạt cuộc chiến, dù cố gắng nhưng quân Vạn Xuân không cầm cự được, Lý Nam Đế chạy đến vùng Khuất Lão tập hợp lực lượng.
Trước tình hình đó, nữ tướng Khoan Khoáng cùng quân của mình vẫn dũng cảm chống quân Lương suốt 2 năm 545-546 ở vùng Bình Xuyên và Yên Lạc, nhiều trận chiến rất ác liệt.
Năm 546, trong một cuộc chiến ác liệt ở làng Yên Lạc, nữ tướng Khoan Khoáng bị thương, đưa đến quê nhà Hổ Kì thì mất vào ngày mồng 10 tháng Chín. Người dân nhớ ơn, nhiều nơi lập đền thờ bà. Sau này bà được triều đình phong sắc làm “Đệ nhị á nương Khoan Khoáng đại vương mỹ mạo linh dung”.
Nữ tướng Phạm Thị Toàn nổi tiếng tận đến sau này. Năm 1103 vua Lý Nhân Tông sắc phong cho Phạm Thị Toàn là “công chúa ni cô”. Tương truyền người dân đã lập đền thờ tôn bà làm Thành Hoàng, bà rất linh thiêng, từng hiển linh giúp cho quân tướng nhà Trần đánh thắng giặc Nguyên Mông.