Chiều 7/1, Quốc hội thảo luận trực tuyến dự thảo Nghị quyết về chính sách tài khóa, tiền tệ để hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội. 3 "tư lệnh" ngành Tài chính, Ngân hàng Nhà nước và Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng lên tiếng giải đáp những băn khoăn của đại biểu Quốc hội.
Về giải pháp tài khóa tiền tệ để thực hiện Chương trình phục hồi thì phần tác động đến bội chi ngân sách 240 nghìn tỷ, trong đó thuế 60 nghìn tỷ. Có nghĩa là mức giảm thuế gấp 3 lần năm 2021 là 20 nghìn tỷ và chi ngân sách cũng lớn nhất từ trước đến nay.
Về ý kiến cho rằng việc giảm 2% thuế suất VAT trong 10% thuế suất là nhỏ, cần giảm đến 5% thì chúng tôi xin giải trình: Áp dụng cho năm 2022 thì sẽ giảm 2% đối với mặt hàng thuế suất 10% trừ những ngành như viễn thông, tài chính, bảo hiểm, ngân hàng, bất động sản, sản xuất kim loại khoáng sản, hóa chất. Như vậy, phần này giảm 49,4 nghìn tỷ. Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị đưa sản phẩm chịu thuế tiêu thụ đặc biệt vào thì chúng tôi cũng tiếp thu.
Còn phương án hàng hóa chịu thuế 5% thì số giảm sẽ lớn hơn là 65%, như vậy sẽ gây áp lực và không đảm bảo cho ngân sách, phân loại quá nhiều sẽ rất phức tạp, chúng tôi xin giữ nguyên như tờ trình.
Vấn đề thứ hai là chi phí được trừ trong thuế TNDN với hỗ trợ Covid-19. Chúng tôi đưa ra hai phương án. Chính phủ và Thường vụ Quốc hội quyết thực hiện phương án nào thì chúng tôi xin thực hiện theo phương án ấy. Phương án hiện vật và tiền thì đa dạng, phong phú hơn nhưng yêu cầu quản lý cũng cao hơn để tránh lợi dụng. Phương án bằng tiền thì tạo thuận lợi trong quá trình quản lý.
Vấn đề thứ ba, đại biểu đề nghị giảm thuế TNDN thay vì VAT có tác dụng với doanh nghiệp hơn. Chúng tôi cho rằng chính sách giảm thuế VAT 2% thì diện phủ rộng hơn, lan tỏa tốt hơn, thêm nữa giảm thuế VAT sẽ kích thích tiêu dùng cho nền kinh tế. Trong khi giảm thuế TNDN thì những doanh nghiệp thua lỗ, khó khăn không được hưởng, do đó đề nghị giữ nguyên như dự thảo.
Vấn đề thứ tư, cho các doanh nghiệp được trừ bổ sung vào tỷ lệ nhất định trên cơ sở chi phí thực tế khi tính thuế thu nhập và chi phí tài sản cố định, chi phí lao động năm 2022-2023 thì chúng tôi thấy rằng thứ nhất là hiện DN đã được trích các chi phí từ những khoản chi phí thực tế trên có đầy đủ hóa đơn và chứng từ hợp pháp, còn nếu tính cao hơn chi phí thực tế thì chúng ta sẽ giảm số thuế phải nộp với DN có lãi còn DN lỗ thì lại không thêm nguồn lực. Báo cáo tài chính cũng không minh bạch giữa các chi phí thuế và không đúng với pháp luật thuế hiện nay và các chuẩn mực kế toán nên chúng tôi cũng xin tiếp tục nghiên cứu.
Vấn đề thứ năm, đề xuất tăng thuế giao dịch chứng khoán, bất động sản và kinh doanh trên nền tảng số, tăng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với hàng hạn chế tiêu dùng.
Đối với thị trường chứng khoán, hiện thị trường chứng khoán đang rất tốt và là kênh huy động vốn quan trọng cho nền kinh tế. Năm 2021 huy động được 7,77 triệu tỷ, chiếm 92,5% GDP năm 2021. Do đó đề nghị giữ nguyên và tập trung siết trái phiếu doanh nghiệp không có tài sản thế chấp.
Đối với chuyển nhượng BĐS cá nhân thì yêu cầu nộp thuế đúng với giá bán thực tế.
Đối với nền tảng số, hiện nay chúng tôi đang tập trung đấu tranh, truy thu thuế trên nền tảng số vì trên nền tảng số thì không phân biệt kinh doanh truyền thống hay trên nền tảng số cho nên đối với doanh nghiệp nước ngoài thì thu ở thuế suất quy định của luật.
Còn các doanh nghiệp chuyển lỗ về năm trước thì sẽ tiếp tục nghiên cứu vì luật hiện hành là quyết toán thu nhập vào kỳ tiếp theo, tức là năm sau, chứ chưa có quy định chuyển lỗ về năm trước. Nếu thực hiện như vậy thì ngân sách phải hoàn về cho doanh nghiệp mà hiện nay tình hình ngân sách đang khó khăn và sẽ phải sửa luật, do đó xin phép Quốc hội cho tiếp tục nghiên cứu.
Ngân hàng Nhà nước xin tiếp thu các ý kiến của ĐBQH và sẽ hoàn thiện, lưu ý trong quá trình hướng dẫn triển khai chương trình.
Theo đó, khi triển khai chương trình tái cơ cấu các tổ chức tín dụng trong đó có các ngân hàng yếu kém, Chính phủ cũng đã trình các cấp có thẩm quyền cho sử dụng dư địa của chính sách tiền tệ để thực hiện. Bởi vậy, trong chương trình này dư địa của chính sách tiền tệ ít và chủ yếu là dựa vào chính sách tài khóa.
Yêu cầu khi thực hiện chương trình này phải đảm bảo kinh tế vĩ mô, đảm bảo các các cân đối lớn của nền kinh tế. Vì vậy khi thực hiện đưa tiền ra trong chương trình này, Chính phủ đã cân nhắc kỹ, đảm bảo tính linh hoạt của chính sách tiền tệ, bởi chính sách tiền tệ bản chất là ngắn hạn phải theo sát diễn biến của thị trường, kinh tế vĩ mô, tiền tệ trong nước và quốc tế và sẽ có sự điều chỉnh linh hoạt để đảm bảo được mục tiêu chương trình nhưng vẫn kiểm soát lạm phát và đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô. Do tính chất ngắn hạn của chính sách tiền tệ, cần sự linh hoạt theo sát diễn biến thị trường cho nên có lúc phải đưa tiền ra có lúc hút tiền về. Chính vì vậy, tại thời điểm xây dựng chương trình này khó có thể lượng hóa được bao nhiêu là lượng tiền ra từ chính sách tiền tệ.
Đối với vấn đề giảm lãi suất, ngay sau khi dịch Covid-19 bùng phát, NHNN tập trung giảm nhanh 3 lần lãi suất điều hành và chỉ đạo các tổ chức tín dụng giảm lãi suất cho vay trong năm 2020 (khoảng 1%) và giảm 0,8% năm 2021. Từ khi dịch bùng phát toàn hệ thống các TCTD giảm 40.000 tỷ cả lãi và phí từ chính nguồn tài chính của các TCTD.
Theo quy định của pháp luật NHNN không thể bắt buộc các TCTD giảm lợi nhuận để giảm lãi vay, vì trong các TCTD có những TCTD có cổ đông là nước ngoài. Chính vì vậy, trong quá trình điều hành chúng tôi điều hành linh hoạt các công cụ và kêu gọi các TCTD giảm lãi suất và nhận được sự đồng thuận cao.
Trong bối cảnh thế giới tăng lãi suất, nền kinh tế yêu cầu giảm mặt bằng lãi suất. Đây thực sự là vấn đề khó khăn. Trong chương trình này, Chính phủ đã cân nhắc các giải pháp để các TCTD giảm 0,5 – 1% trong 2 năm. Đây là nguồn lực của các TCTD.
Về gợi ý giảm tỷ lệ Dự trữ bắt buộc của ĐBQH, NHNN sẽ tiếp thu và trong quá trình sẽ điều hành linh hoạt. Hiện NHNN chưa dùng đến dự trữ bắt buộc vì thanh khoản đang dư thừa.
Về gói hỗ trợ 40.000 tỷ đồng, lãi suất từ ngân sách nhưng nguồn cho vay là nguồn huy động của các ngân hàng. NHNN cũng sẽ điều tiết làm sao tạo thuận lợi để các TCTD có nguồn cung tín dụng đáp ứng được cho vay gói này. NHNN sẽ phối hợp với các Bộ ngành liên quan khắc phục những hạn chế của các gói hỗ trợ trước.
Cuối cùng, vấn đề tăng vốn điều lệ cho Agribank, rất cần thiết bởi so với các nước tiềm lực vốn của ngân hàng Việt Nam thấp so với các nước. Trong những năm qua, các ngân hàng cổ phần tăng vốn khá mạnh mẽ, các NHTM Nhà nước tăng khiên tốn, cho nên chương trình này cũng đặt ra vấn đề tăng vốn cho các NHTM Nhà nước, để nuôi dưỡng nguồn thu. Agribank thuộc thẩm quyền của Quốc hội nên đưa vào chương trình để xin ý kiến Quốc hội.
Thứ nhất, về quy mô tổng thể chính sách tài khóa, tiền tệ và ngân sách huy động, Chính phủ đã nghiên cứu và đánh giá tình hình phát triển các ngành kinh tế nói riêng và tình hình KTXH nói chung, những khó khăn trong sản xuất, kinh doanh của DN và người dân, người lao động và nhu cầu hỗ trợ, khả năng huy động nguồn lực, hấp thụ của nền kinh tế để xây dựng chính sách tài khóa tiền tệ với quy mô phù hợp.
Trên cơ sở đó, đề xuất các quy mô, phạm vi, đối tượng và lộ trình thực hiện của từng chính sách như chính sách miễn giảm thuế ngay trong năm 2022, năm đầu thực hiện chương trình thì có thể thực hiện được ngay 100%. Hỗ trợ đầu tư công, đặc biệt là y tế cơ sở, y tế dự phòng, hạ tầng giao thông chiến lược, cần có thời gian hoàn tất công tác chuẩn bị nên cần có sự điều phối linh hoạt giữa kế hoạch đầu tư trung hạn và chính sách tài khóa hỗ trợ đầu tư công trong chương trình nhằm giải ngân hiệu quả nguồn lực quan trọng này.
Để đảm bảo nguồn vốn triển khai thì như Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc và Thống đốc Nguyễn Thị Hồng đã trình bày, trước hết Chính phủ thực hiện nghiêm túc việc tiết kiệm các khoản chi từ NSNN, phấn đấu tăng thu và đẩy mạnh lộ trình cải cách thuế, chống thất thu, chuyển giá, trốn thuế, rồi thoái vốn, cổ phần hóa DNNN…Sau đó mới đến huy động các nguồn vay trái phiếu Chính phủ trong nước, rồi mới đến vay ODA, vay tài trợ nước ngoài.
Như vậy, việc đề xuất quy mô tổng thể, phương thức, lộ trình huy động giải ngân các nguồn vốn cho từng năm đã được Chính phủ tính toán trên cơ sở giữ vững ổn định vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế và cơ bản đáp ứng được các yêu cầu. Trong đó, năm 2022 sẽ thực hiện giải ngân khoảng 42% tổng số vốn của Chương trình, phần còn lại giải ngân trong năm 2023.
Thứ hai, về phân bổ, quản trị sử dụng thực hiện các nguồn vốn từ chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ hiệu quả, trước hết phải tuân thủ quy định của pháp luật hiện hành, nhất là với chính sách tài khóa. Ngoài ra phải đáp ứng các nguyên tắc, tiêu chí phân bổ của chương trình trên cơ sở mục tiêu, quan điểm của Chính phủ đã nghiên cứu. Đề xuất có trọng tâm trọng điểm, vừa đáp ứng nhu cầu trước mắt, vừa phục vụ nhu cầu tăng trưởng phát triển bền vững lâu dài, thúc đẩy cả cung và cầu trong nền kinh tế. Chính sách tập trung vào các ngành, lĩnh vực cần thiết trước mắt đảm bảo nâng cao năng lực phòng chống dịch gắn với nâng cao năng lực hiện đại hóa các trung tâm chuyên sâu CDC cấp vùng, bệnh viện tuyến trung ương, hỗ trợ nâng cao năng lực giải quyết việc làm, đào tạo lao động phục hồi ngành du lịch… tiếp đó là phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông chiến lược kết nối các cửa khẩu phía Đông Bắc kết nối các cửa khẩu, khu kinh tế…
Ngoài ra việc phân bổ nguồn vốn cũng bảo đảm hài hòa giữa các vùng miền, tạo động lực mới cho phát triển, đảm bảo công bằng nhưng không cào bằng, xác định thứ tự ưu tiên đầu tư, ưu tiên ngành, lĩnh vực có tính lan tỏa. Nhìn chung chính sách đã được chuẩn bị nghiêm túc, bảo đảm thiết thực, hiệu quả đến quá trình phục hồi và phát triển kinh tế.
Tuy nhiên, như nhiều ĐBQH đã phát biểu, Chương trình quy mô tương đối lớn, thời gian thực hiện tương đối ngắn, khả năng hấp thụ để đảm bảo đạt mục tiêu đề ra của chương trình là thách thức lớn với nền kinh tế nước ta hiện nay.
Do vậy vấn đề quan trọng nhất là bảo đảm sự thành công của chính sách là quá trình tổ chức thực hiện ở các cấp các ngành sau khi được các chính sách tài khóa tiền tệ được Quốc hội thông qua. Chúng tôi hoàn toàn đồng tình với ý kiến của ĐBQH là vấn đề quan trọng nằm ở khâu tổ chức thực hiện.
Về các cơ chế chính sách đặc thù. Ngoài chính sách tài khóa tiền tệ thì Chính phủ cũng trình Quốc hội 3 chính sách đặc thù. Đây là những quy định mới chưa được quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật nhưng Chính phủ trình Quốc hội cho phép thí điểm thực hiện đối với các dự án thuộc chương trình và việc thực hiện các chương trình này cũng sẽ giúp rút ngắn thời gian với công tác đấu thầu các dự án đầu tư công, đấu giá quyền khai thác các dự án khoáng sản và cấp phép.
Các cơ chế chính sách đặc thù này cũng thu hút sự tham gia của các địa phương trong việc thực hiện các dự án đường cao tốc đi qua tại địa phương mình như công tác giải phóng mặt bằng, tái định cư, cấp phép mỏ vật liệu, bảo đảm cung cấp vật liệu cho dự án... Đây là những chính sách đặc thù rất có ý nghĩa trong thời điểm hiện nay, vừa góp phần đẩy nhanh tiến độ dự án, sử dụng hiệu quả nguồn lực, đẩy nhanh tiến độ giải ngân mà quan trọng hơn là góp phần nâng cao năng lực, sức cạnh tranh của nền kinh tế, sớm thực hiện được các mục tiêu chiến lược về phát triển hệ thống đường cao tốc của Việt Nam đã được Nghị quyết 13 đề ra.