Trong khi vụ các doanh nghiệp điều Việt Nam nghi bị lừa đảo tại Italia vẫn chưa có kết luận, nhiều thông tin cho rằng phương thức thanh toán trả tiền nhận chứng từ (D/P - Documents against Payment) là một nguyên nhân dẫn đến thiệt hại; tại sao doanh nghiệp Việt đi ra thương trường quốc tế lại hớ hênh như thế?...
Chúng ta hãy cùng nhau nhìn lại các phương thức thanh toán quốc tế và khả năng áp dụng trong thực tế.
Phương thức điện chuyển tiền (T/T), giống như việc chuyển khoản giữa hai cá nhân với nhau. Phương thức này có ưu điểm là thực hiện nhanh chóng, dễ dàng, không có nhiều điều kiện, thủ tục, không phải chuyển bộ chứng từ gốc thông qua ngân hàng, không phải ký quỹ (và do đó không bị đọng vốn).
Tuy nhiên, nhược điểm này nằm ở thời điểm chuyển tiền.
Nếu chuyển tiền trước khi nhận được hàng thì rủi ro sẽ nằm ở người mua vì có thể hàng hóa không đủ số lượng, không đạt chất lượng yêu cầu.
Nếu để người mua nhận được hàng rồi mới chuyển tiền thì rủi ro chuyển sang người bán vì việc thanh toán lúc đó phụ thuộc thiện chí của người mua, nếu người mua không thanh toán hoặc nại lý do để trừ tiền thì người bán rơi vào thế khó xử.
Để tăng sự tin tưởng và chia sẻ rủi ro, hai bên có thể thỏa thuận người mua chuyển tiền trước 20- 30%, số tiền còn lại chuyển sau khi scan bộ chứng từ và trước khi hàng tới cảng người mua.
Thường phương thức này được áp dụng với những đối tác đã làm lâu năm, có độ tin cậy cao.
Còn phương thức trả tiền nhận chứng từ (D/P), thì người bán và người mua sử dụng ngân hàng như một đơn vị trung gian, đảm bảo.
Sau khi giao hàng, người bán gửi bộ chứng từ đến ngân hàng người mua. Ngân hàng chỉ giao chứng từ cho người mua sau khi người mua đã thanh toán tiền hàng.
Với phương thức này, khả năng rủi ro của người bán sẽ thấp hơn vì nếu người mua không trả tiền thì sẽ không thể lấy được hàng. Trong trường hợp đó, người bán không mất hàng, nhưng sẽ mất thêm công sức, chi phí để đưa hàng về hoặc tìm khách hàng khác để bán lại lô hàng đó.
Ngoài ra, còn có phương thức khác cũng tương tự như phương thức D/P là phương thức CAD - Cash against Documents.
Ở phương thức thư tín dụng (L/C - Letter of Credit), ngân hàng người mua phát hành L/C, với các nội dung chi tiết tương ứng với các điều khoản trong hợp đồng, như một văn bản cam kết trả tiền cho bên bán.
Khi ngân hàng nhận được bộ chứng từ do người bán gửi đến và kiểm tra bộ chứng từ đó phù hợp với quy định trong L/C thì ngân hàng sẽ trả tiền cho người bán.
Để đảm bảo việc thanh toán thì ngân hàng thường yêu cầu người mua phải ký quỹ trước một số tiền nào đó, thậm chí là 100% giá trị của hợp đồng. Do vậy, người mua trong trường hợp này sẽ bị chôn vốn ở ngân hàng.
Như vậy, L/C là phương thức thanh toán đảm bảo nhất cho người bán, nhưng đồng thời cũng bất lợi nhất cho người mua.
Không như những gì chúng ta vẫn hình dung khi học về thương mại quốc tế trên ghế nhà trường, L/C là một phương thức thanh toán ít rủi ro nhất, nhưng lại không phải là phương thức thanh toán phổ biến nhất trong thương mại nông sản.
Nghe có vẻ phi logic? Nhưng đó là sự thực!
Một doanh nhân trong cuộc trình bày với tôi rằng: Hàng nông sản giá trị thấp, mỗi lô hàng có trị giá vài trăm nghìn USD. Người mua thì không mua nhiều một lúc, mà họ mua gối đầu, từng lô nhỏ.
Nếu lô hàng nào cũng mở L/C thì mỗi tháng có khi đến vài chục L/C. Mở L/C thì phải ký quỹ ngân hàng, không 100% thì cũng phải một tỷ lệ nào đó. Như vậy, người mua sẽ bị đọng vốn ở ngân hàng trong suốt thời gian chờ nhận hàng, lên đến cả tháng trời. Không người mua nào muốn như thế cả. Nếu mình cứ khăng khăng đòi L/C thì họ sẽ đi tìm người bán khác.
Đó là chưa kể thời gian để nhận được L/C của ngân hàng người mua cũng khá dài, ít nhất phải một tuần mà giá trị trường thì biến động từng ngày. Trong khi phải nhận được L/C thì người bán mới có thể giao hàng. Đã mua bán thì ai cũng muốn kết thúc thương vụ một cách nhanh nhất.
Do đó, theo chia sẻ của vị doanh nhân trên, L/C chỉ chiếm khoảng 5% tỷ lệ thanh toán trên thực tế đối với hàng nông sản.
'Vậy thì các anh đang dùng hình thức thanh toán nào? Biết là rủi ro hơn L/C mà sao mình vẫn chấp nhận?", tôi hỏi.
“Tụi em dùng T/T, D/P và CAD. Biết là có rủi ro hơn, nhưng cả thị trường đều như vậy. Thế mới có cái gọi là thông lệ quốc tế trong kinh doanh.
Khi lựa chọn các phương thức này, mình cũng phải có thêm một có biện pháp để tăng thêm độ tin cậy của giao dịch”, theo vị doanh nhân.
Như vậy, là phần nào đã rõ, vấn đề là thế mạnh đàm phán thuộc về ai.
Khi thị trường là của người mua thì họ sẽ đưa ra phương thức thanh toán tiện nhất cho họ. Nếu thị trường thuộc về người bán thì người bán mới có thể áp đặt được phương thức có lợi cho mình.
Tôi hỏi tiếp: Những biện pháp đó là gì? Liệu có thể chia sẻ để các doanh nghiệp khác cùng rút ra bài học được không?
Dường như cũng nhận thấy mong muốn giúp cho các doanh nghiệp khác có thể tự tin hơn khi bước ra thị trường quốc tế, anh vui vẻ bật mí:
"Phải kiểm tra người mua kỹ hơn, qua nhiều kênh thông tin khác nhau. Và giành quyền thuê tàu, vì khi thuê tàu thì ta sẽ chủ động hơn trong việc nắm lịch trình, và có vấn đề gì ta làm việc với hãng tàu cũng dễ hơn vì ta là người trả tiền cho họ".
Ôi! Thế là bán CIF thay vì bán FOB phải không!?...
Đúng là một nút thắt mà chúng ta vẫn nói đến bao lâu nay, rằng doanh nghiệp Việt đẩy hết quyền thuê tàu cho đối tác, chỉ quen nhận hàng về tận cảng (đối với nhập khẩu) hoặc đưa hàng ra đến cảng là xong (xuất khẩu).
Như vậy là cũng có thêm một lý do, một động lực để doanh nghiệp thay đổi thói quen, chuyển sang mua FOB, bán CIF.
Trở lại với băn khoăn của tôi về phương thức thanh toán, doanh nhân này cho biết:
Bản chất của D/P, CAD hay L/C đều là nhờ thu qua ngân hàng. Tất cả phương thức này đều phải trả tiền cho bộ chứng từ trước khi nhận hàng nên xét về mặt chứng từ thì tính an toàn tương đương nhau. Còn một khi đã có ý đồ lừa đảo để lấy mất chứng từ thì rủi ro đó nằm ngoài phương thức thanh toán.
Như vậy, nếu đúng đây là một vụ lừa đảo, thì hành vi lừa đảo này có thể diễn ra với bất kỳ hình thức thanh toán nào, chứ không phải chỉ với D/P hay CAD?
"Vâng, đúng như vậy! Kể cả với L/C cũng "dính". Đây là một "lỗ hổng" trong thương mại quốc tế mà sau vụ này chúng ta phải tìm cách khắc phục".
Câu chuyện "100 container điều" vẫn chưa kết thúc, nhưng qua những gì trao đổi, tôi hiểu ra rằng, các doanh nhân của chúng ta đã rất vất vả, lăn lộn trên thương trường để đưa một mặt hàng nông sản như hạt điều của chúng ta ra với thế giới, và đưa đất nước chúng ta lên vị trí số 1 về xuất khẩu hạt điều.
Không phải ở trong cuộc, chúng ta đừng vội chê trách họ, mà hãy cùng chung tay để tìm ra giải pháp khả dĩ nhất, qua đó cũng rút ra những bài học cần thiết để xuất khẩu nông sản của chúng ta tiếp tục vươn lên.