Giáo sư Paul Pillar- cựu sĩ quan Tình báo Quốc gia Mỹ khu vực Cận Đông và Nam Á đã có bài phân tích trên tạp chí National Interest. Theo Paul Pillar, ông Putin đã đầu tư quá nhiều vào vị thế và uy tín của mình cho các hoạt động quân sự của Nga ở Ukraine. Điều mà Mỹ và các đồng minh NATO mong đợi nhất lúc này là ông Putin quay đầu và rút quân, cho dù đến nay Ukraine vẫn đang nỗ lực kháng cự.
Để bất kỳ kết quả nào có thể chấp nhận được, Tổng thống Nga Putin phải thể hiện bản thân mình như một người chiến thắng. Và, trong bất kỳ cuộc đàm phán nào về hòa bình cho Ukraine, phần chính của vấn đề vẫn bao hàm cả yếu tố vừa nêu.
Như nhiều nhà bình luận đã đề xuất, một số công thức liên quan đến sự trung lập của Ukraine và sự thừa nhận rằng Ukraine không gia nhập NATO là điều cần thiết nếu đạt được một thỏa thuận như vậy.
Nhưng diễn biến của cuộc chiến cũng quan trọng. Tổng thống Putin có thể sẽ suy nghĩ nhiều hơn về những gì ông có quyền áp đặt một cách đơn phương và ít hơn về những gì ông có thể thỏa hiệp. Nếu cuộc chiến diễn ra quá tồi tệ đối với Nga, ông Putin có thể ít quan tâm đến việc đàm phán hơn. Ông Putin phải thể hiện lại chính mình với tư cách là người chiến thắng về mặt ngoại giao và quân sự, mà cách tốt nhất để thúc đẩy điều này là thông qua bộ máy tuyên truyền.
Thông thường, những gì cần thiết cho lợi ích chung trong các cuộc đàm phán không chỉ là sự bế tắc mà là sự thử nghiệm và sử dụng hết các khả năng quân sự mà cả hai bên đều hy vọng sẽ giúp họ thoát khỏi bế tắc.
Nếu tình thế quân sự có lợi cho một bên, thì có thể sẽ coi các cuộc đàm phán là không cần thiết để đạt được các mục tiêu của mình. Ngược lại, bên thua về lợi thế quân sự cũng có thể không quan tâm đến các cuộc đàm phán vì họ sẽ mặc cả từ một thế yếu. Bên thua sẽ muốn sử dụng nhiều nỗ lực quân sự hơn để củng cố vị thế đàm phán của mình trước.
Trong lịch sử, cuộc Chiến tranh Triều Tiên cũng đã minh chứng cho động lực này. Trong năm đầu tiên, cuộc chiến diễn ra quá tốt hoặc quá kém đối với một trong hai bên để có thể tiến hành đàm phán đình chiến.
Cuộc đổ bộ vào Incheon của tướng Douglas MacArthur sau đó đã đảo ngược tình thế đó, đã có một thời gian ngắn miền Bắc quan tâm đến các cuộc đàm phán hòa bình, nhưng sau đó cuộc chiến đang diễn ra quá tốt cho phía LHQ, vì việc giải phóng Triều Tiên dường như nằm trong tầm tay.
Sự can thiệp của Trung Quốc đã đảo ngược tình thế một lần nữa. Chỉ cho đến khi các lực lượng của Liên Hợp Quốc ngăn chặn bước tiến của Trung Quốc và đẩy chiến tuyến trở lại gần nơi bắt đầu cuộc chiến, cả hai bên mới kết luận rằng họ đã cạn kiệt khả năng chiến thắng quân sự và họ mới ngồi lại đàm phán.
Động lực mà Chiến tranh Triều Tiên thể hiện liên quan đến sức mạnh thương lượng được nhận thức mà mỗi bên sẽ có khi họ đàm phán. Một yếu tố khác thường xảy ra liên quan đến niềm tự hào và danh tiếng của một lực lượng quân sự và quốc gia sử dụng lực lượng đó.
Tổng thống Ai Cập Anwar Sadat khởi xướng Chiến tranh Ả Rập-Israel năm 1973 chủ yếu để khôi phục uy tín của Ai Cập và quân đội nước này sau khi chịu thất bại trước Israel năm 1967. Tại thời điểm đình chiến để kết thúc cuộc giao tranh trong cuộc chiến năm 1973, Israel đang chiến thắng, nhưng trước đó các lực lượng Ai Cập đã thể hiện đủ đáng nể ttrong cuộc chiến để chuộc lại danh tiếng của họ và cho phép Sadat ngẩng cao đầu khi sau đó ông đến Israel để bắt đầu đàm phán một hiệp ước hòa bình.
Các yếu tố tương tự có thể áp dụng cho Tổng thống Nga Putin và quân đội Nga. Để chấp nhận bất kỳ thương lượng nào kết thúc chiến tranh, Tổng thống Nga có lẽ cần lực lượng của mình rút khỏi Ukraine mà danh tiếng của họ vẫn còn nguyên vẹn. Điều này sẽ không chỉ ảnh hưởng đến bất kỳ cuộc đàm phán nào về tình trạng của Ukraine mà còn đối với các xung đột và vấn đề khác mà Nga có thể tham gia.
Ngay cả khi Putin đã thực hiện một số tính toán lại sau cuộc điều quân của ông.
Ở Ukraine, quân đội Nga đã gặp nhiều khó khăn hơn những gì có thể dự đoán và ngay cả khi ông Putin đang suy nghĩ nghiêm túc về việc thỏa hiệp với người Ukraine, ông có thể thấy cần phải trừng phạt nhiều hơn và chiếm thêm lãnh thổ trước khi ngồi xuống đàm phán.
Tin xấu là điều này sẽ đồng nghĩa với chiến tranh nhiều hơn, tàn phá nhiều hơn và đau khổ hơn đối với người Ukraine (và cả binh lính Nga). Rõ ràng, sẽ tốt hơn cho tất cả những người có liên quan nếu điều này không được chứng minh là đúng như vậy.
Tin tốt là các hành động tấn công như vậy của Nga không nhất thiết phải ám chỉ các mục tiêu ngày càng mở rộng của Nga. Nhưng các chính phủ phương Tây và người Ukraine sẽ phải nhận ra khả năng đó và không nhầm lẫn điều tồi tệ nhất về ý định của Putin.