Dân Việt

Hành trình 2000km tiến về giải phóng Sài Gòn qua lời kể người trong cuộc (bài 2): Trận đánh căn cứ Nước Trong

Chiến Hoàng 01/05/2022 14:31 GMT+7
"Xe tăng cháy, đồng đội trong xe hi sinh cả, chỉ mình tôi vọt được ra khỏi xe. Trong đêm tối, tôi đâm sập vào rào thép gai, tay chân dang ra như ếch, đợi hứng đạn địch”, ông Hà Văn Bình, cựu lính tăng thuộc Đại đội 5, Tiểu đoàn 512, Lữ đoàn 203 Tăng Thiết giáp nhớ lại.

Trận đánh mở màn

Kể với chúng tôi về trận đánh đầu tiên vào căn cứ Nước Trong, Trường Sĩ quan Thiết giáp của địch, ông Hà Văn Bình (trú tại phường Phùng Chí Kiên, TP.Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn) - cựu lính lái xe tăng thuộc Đại đội 5, Tiểu đoàn 512, Lữ đoàn 203 Tăng Thiết giáp - như đang tua lại cả một thước phim quý.

Kịch tính trận đánh căn cứ Nước Trong qua lời kể của một lính Tăng Thiết giáp (bài 2) - Ảnh 1.

Ông Hà Văn Bình, cựu lính lái xe tăng thuộc Đại đội 5, Tiểu đoàn 512, Lữ đoàn 203 Tăng Thiết giáp kể về thời khắc thoát chết trong gang tấc tại trận đánh vào căn cứ Nước Trong của địch ở Đồng Nai. Ảnh: Chiến Hoàng

Ông Bình kể: "Trước khi vào trận đánh đầu tiên, ông Nguyễn Văn Hiền, pháo thủ số 1 có trình độ pháo thủ cấp 2 (đủ trình độ bắn hành tiến dù xe đang chạy số 2 vẫn đảm bảo trúng mục tiêu) kêu:

- Các quê ạ, đằng nào cũng chết, thằng nào có quần áo mới thì mặc vào.

17 giờ 30 ngày 26/4/1975, theo hợp đồng quy định của mặt trận, pháo kích mặt trận bắn hơn 1.000 quả pháo 130 vào hàng rào thứ nhất của căn cứ Nước Trong, Trường Sĩ quan Thiết giáp của địch tại Đồng Nai, phòng tuyến cuối cùng của địch ở cửa ngõ Sài Gòn.

Cùng với tiếng pháo nổ, xe tăng bắt đầu rầm rập xuất kích để giữ bí mật. Xe tôi đi đầu trong đội hình tăng do là xe của Trung đội trưởng. Phía trước xe tôi có một xe bọc thép chở tiểu đội trinh sát.

Khi chuyển làn bắn xong hàng rào thứ 2, thứ 3, tôi vẫn chưa thụt ghế mà lái thò đầu. Đường chính vào căn cứ, địch không thèm chôn mà thả nổi mìn chống tăng trên mặt đất, dưới hai bên đường là hàng rào cũi lợn, hàng rào giàn mướp, các loại bùng nhùng thép gai.

Chúng tôi được lệnh dàn hàng ngang xuống ruộng sắn và ruộng mía để càn vào. Vừa xuống được hơn 100m thì trước mắt bạt ngàn lính dù mặc quần áo rằn ri thi nhau đứng dậy chạy. 

Thì ra, đêm chúng ra ngoài phục kích nhưng không ngờ được ta lại đánh đội hình xe tăng lớn thế để đi vào, mà hơn nữa lại là xe tăng hạng nặng.

Trung đội trưởng Nguyễn Văn Tốn hô lái xe bắn đi, tôi liền lên đạn khẩu đại liên K53 bắn bằng điện, vừa bắn vừa rê xe. Khẩu ấy bắn ra thấp thì trúng bụng, xa thì ngang ngực không bao giờ sai. Tôi thấy lính dù đổ như ngả rạ.

Cùng lúc, pháo thủ số 1 và số 2 cũng dùng 12 ly 7 và đại liên bắn nên địch chết nhiều vô kể. Xe tôi chạy nhanh, chúng chạy không kịp, xe vượt lên, lính dù ngồi xuống giơ tay hàng, bộ binh đi sau giải quyết. Xe chúng tôi tiếp tục tiến vào căn cứ địch.

Khi lên đến bờ đất cao, xe bắt đầu rẽ vào hướng cửa mở do pháo binh bắn phá bằng đạn 130. Vừa vượt qua, xe bọc thép trinh sát đi đầu bị dính đạn, vỡ thùng dầu, cả một tiểu đội trinh sát bị cháy nhảy ra lăn lộn trên mặt đất rồi đụng mìn hi sinh hết.

Tôi bấm công tắc mũ bảo:

- Anh Tốn, bọc thép cháy rồi!

- Biết rồi, mày bấm ghế thụt xuống đóng cửa vào. 

Lúc ấy tôi mới bấm ghế thụt xuống và lái bằng 2 kính tiềm vọng, mỗi mắt chỉ to bằng 2 ngón tay.

Khi Trung đội trưởng lệnh, lái xe vượt qua xe bọc thép để tiến vào, lúc bấy giờ chúng tôi đang đi đội hình hàng dọc. Hai bên đường là nhà cấp 4, nhà cao tầng, khu gia binh… mất điện nên chẳng biết gì.

Nhìn qua kính thấy đạn lửa bên địch bắn về, đạn bên mình bắn qua đầu vượt lên. Đang đi nghe tiếng huỵch… rồi xe khựng lại chết máy. Chấn động xe làm tay chân tôi tê hết.

Xe trưởng Nguyễn Văn Tốn hỏi:

- Lái xe, có sao không?

Lúc này, kính bên phải bị vỡ, còn mỗi kính bên trái.

Nguyên tắc biên chế chiến đấu, mỗi xe tăng được 2 kính dự phòng, tôi lấy lơ via bên cạnh vừa lái vừa cậy kính kéo ra để thay, xong tiếp tục cho xe tiến thì dính đạn tiếp và vỡ kính bên trái. Sau, cả bốn kính vỡ hết.

Tôi báo cáo và đề nghị được mở cửa thò đầu để lái và đề nghị không đánh pháo thấp vì nếu đánh, tôi sẽ bị cắt đứt đầu.

Trung đội trưởng không cho và bảo, đôi khi còn phải đánh bắn ụ hỏa lực (tà âm). Mà khẩu pháo khi chúc xuống bắn thấp nhất trước mặt là 7m, như vậy sẽ đứt cổ nếu lái thò đầu.

Và ông Tốn đề nghị cứ ngồi nguyên lái, sang trái hay phải ông sẽ chỉ huy.

Lúc ấy tôi mất hoàn toàn ý niệm về không gian, địa hình. Bảo tiến thì tiến, lùi thì lùi.

Thoát chết trong gang tấc

Khi tôi đang ngồi lái, tự nhiên thấy hự một tiếng, xe khựng lại. Tôi không thấy nóng mà chỉ thấy khó thở. Linh cảm xe cháy, tôi vội thò tay đánh chốt cửa riêng của lái xe, lập tức cửa bật lên xoay ngang. Không khí ùa vào, lúc này tôi mới nói được.

Ông Hiền pháo thủ số 1 ngồi ngay sau tôi, tôi quay lại vỗ đầu gối kêu ông Hiền:

- Hiền, cháy xe, nhảy!

Nhưng lúc ấy, hai tay ông Nguyễn Văn Hiền đã thõng xuống, buồng pháo thủ đã hồng rực.

Nói thì lâu nhưng nhanh lắm, tôi đứng lên, cúi người đạp chân bật nhảy ra khỏi buồng lái, rồi lăn trên lá chắn bùn xuống đường, lăn tiếp mấy vòng sang bên kia đường rồi nhảy qua một bức tường đổ.

Khi quay lại nhìn xe, lửa lúc này đã liếm ra các khe cửa, chân tháp pháo… Trong xe, còn xe trưởng Nguyễn Văn Tốn, pháo thủ Nguyễn Văn Hiền và Nguyễn Văn Nghiêm không thoát ra được.

Tôi nằm định thần và định hướng để chạy, phía sau ta đánh lên cả tăng và bộ binh. Mặc dù mỗi người đều có một băng vải trắng buộc cánh tay để phân biệt nhưng đêm tối không nhìn được. Phía trước địch đang đánh lại, đạn giăng như lưới.

Trong quá trình vừa bò vừa chạy, tôi gặp vô số thi thể, có những lúc chống tay thọc cả vào bụng người chết, ruột gan lòng thòng cả. Lúc đó, không hề biết sợ mà cũng chẳng còn thời gian để sợ nữa…

Ra đến đầu ngoài khu căn cứ là lúc khó và khổ nhất. Lúc này, pháo kích địch bắn khủng khiếp, pháo 105 chúng nó mấy chục khẩu nằm ngang bắn lên, khi rút hết tầm về lại nâng tầm tiếp, khoảng cách 1m một chơi kích giàn.

Cứ nằm hố kích tránh pháo rồi lại vùng chạy. Chạy trong đêm tối gặp hàng rào thép gai mỏ quạ vô cùng sắc, không kịp phản ứng, người tôi đổ ập vào. Gai ngược, gai xuôi găm sâu áo quần, da thịt, tôi như con ếch được căng ra trên rào đợi hứng đạn.

Càng dãy càng bị dính chặt, mà pháo kích giàn của địch lúc này đang lùi dần lại. Bộ quần áo mới, đôi giày mới chắc bền mặc lúc ra trận suýt khiến tôi bỏ mạng. Dãy mãi, dãy mãi mới rách bung ra, tôi quăng người xuống một hố kích gần đó, giàn pháo địch cũng vừa lúc đến nơi.

Lợi dụng pháo kích rơi xuống hàng rào, phá bung ra, tôi mới bò thoát. Đến cánh đồng khoai, cứ nghe pháo kích thì chạy, sắp nổ thì nằm xuống rãnh khoai.

Tang tảng sáng, tôi gặp xe tăng 846, xe Đại đội trưởng, lúc đầu trận đi sau xe của tôi. Vẫn thấy pháo quay đi quay lại để bắn, tôi giơ tay, trèo lên xe gõ cửa xe trưởng.

Lúc này, Thong - pháo thủ số 1 mở cửa, Thong chỉ tai bảo bắn nhiều quá điếc rồi.

Tôi kéo Thong nhảy xuống dưới đường rồi viết lên đất hỏi:

- Mọi người đâu hết rồi?

Lúc này mới biết Đại đội trưởng trong xe Thong bị thương, lái xe bị thương, pháo thủ số 2 đưa 2 người đi cứu thương.

Tôi lái xe Thong theo vết xích về lại nơi tập kết. Lúc tìm lại được xe tăng của tôi, chỉ còn là một vũng thép.

Căn cứ Nước Trong, ta và địch giằng co quyết liệt từng mét đất. Ban đêm ta đánh vào, ban ngày lại bị địch đánh bật ra, mà địch bắn chính xác từng chiến hào, đẩy lùi cả bộ binh và xe tăng.

Ngày 29/4/1975, ta không đánh đêm nữa mà chuyển sang đánh ngày.

Ông Phùng Văn Thinh, Trung đội phó Trung đội 1 lúc tiến đánh thấy trên tháp nước cao của địch có người lố nhố mới cho xe lùi lại đủ tầm, bắn lên một quả đạn 100, tháp nước nổ tung, mấy thằng văng xuống chết.

Thì ra là trinh sát pháo binh của địch. Đây chính là nguyên nhân khiến ban ngày địch đẩy lùi được quân ta.

Sau khi phá tháp nước, ta đánh căn cứ rất thuận lợi và hoàn thành việc đánh chiếm căn cứ trọng điểm nhất của địch", ông Bình nhớ lại.