Không chỉ là công trình văn hóa tín ngưỡng thờ Phật khởi dựng từ lâu đời, chùa Phật Tích còn là nơi hội tụ và dừng chân của các nhà truyền giáo đầu tiên khi từ Ấn Độ sang nước ta như Khâu Đà Là (189), Mà Ha Kỳ Vực (298 - 300).
CLIP: Chiêm ngưỡng vẻ đẹp độc đáo tượng Phật A DI Đà - báu vật quốc gia ở chùa Phật Tích.
Từ trung tâm Phật Tích, các tu sĩ sau khi tu thiền, đắc đạo đã tiến hành truyền bá đạo Phật ra các vùng miền, trước hết là tại Luy Lâu, trị sở của Giao Châu, cũng là nơi đô hộ vào bậc nhất của Giao Châu thời bấy giờ.
Sự tích Man Nương được ghi trong Cổ Châu Phật bản hạnh với các tình tiết người con gái vùng Dâu – Luy lâu thọ giới sư Khâu Đà La, sinh ra thạch quang phật và cây dung thụ gẫy trôi từ Phật Tích theo dòng sông Dâu về Luy Lâu, được Man Nương vớt lên và Sĩ Nhiếp cho tạc tành "Phật Tứ Pháp" thờ ở chùa tại trung tâm Luy lâu và lễ hội Dâu nổi tiếng vào ngày sinh phật mẫu Man Nương…
Điều này cho thấy ảnh hưởng của trung tâm Phật giáo Phật Tích đối với việc hình thành trung tâm Phật giáo Luy Lâu. Có thể khẳng định trung tâm Phật giáo Phật Tích có vai trò quan trọng hàng đầu trong việc hình thành trung tâm phật giáo Luy Lâu.
Vậy là, vào đầu công nguyên, trung tâm Phật giáo Phật Tích và trung tâm Phật giáo Luy Lâu đã được hình thành với sự truyền bá của các giáo sĩ Ấn Độ và sự tiếp thu của người dân bản địa, trước hết là người dân vùng Luy Lâu mà tiêu biểu là Man Nương, một phụ nữ vùng Dâu sau trở thành Phật mẫu Man Nương.
Cả hai trung tâm Phật giáo lớn và cổ xưa nhất Việt Nam nay đều trên đất Bắc Ninh, trong đó trung tâm Phật giáo Luy Lâu là một trong ba trung tâm Phật giáo lớn nhất trong đế chế Hán thời đầu công nguyên là Lạc Dương, Bành Thành và Luy Lâu. Bắc Ninh chính là đất tổ Phật giáo Việt Nam và là quê hương của chùa, tháp ngay từ những thế kỷ đầu công nguyên.
Theo sách "Đại Việt Sử Ký toàn thư" và các dấu tích còn lại, cũng như các di vật tìm thấy ở khu vực chùa, chùa Phật Tích được xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ VII-X và được xây dựng thành Đại danh lam vào triều Lý Thánh Tông năm Đinh Dậu, niên hiệu Long Thuỵ Thái Bình thứ 4 (1057).
Ảnh: Khương Lực.
Thời Trần, Phật Tích không chỉ là trung tâm Phật giáo mà còn là một trung tâm Nho giáo. Các vua Trần thường lui tới chùa thăm cảnh, lễ phật, dự hội và đền thờ. Vua Trần Nhân Tông đã cho xây dựng cung Bảo Hòa và một thiền viện lớn ở Phật Tích. Vua Trần Nghệ Tông đã cho tổ chức cuộc thi Thái học sinh (tức thi chọn Tiến sĩ) quy mô toàn quốc tại chùa Phật Tích vào năm 1384.
Đến thời Lê Trung Hưng, chùa Phật Tích được quý tộc triều đình cho trùng tu với quy mô lớn theo kiểu chùa Trăm gian có kiến trúc kiểu "Nội công ngoại quốc". Chùa Phật Tích là một ngôi chùa độc đáo, có bố cục gọn gang, chặt chẽ và rất sinh động. Cùng với gác chuông hai tầng, tòa Tam Bảo thâm nghiêm và vườn tháp nhấp nhô là những điểm nổi trội của tổng thể khu chùa tạo ra một thế lô xô cho mái của các đơn nguyên kiến trúc, đồng thời, nó gây một cảm giác như ngôi chùa đang trôi bồng bềnh trong cõi Phật.
Sau khi thực dân Pháp chiếm đóng và hủy hoàn toàn kiến trúc của ngôi chùa vào năm 1947, chỉ còn lại pho tượng A DI Đà, đây là kiệt tác điêu khắc thời Lý và đã được Nhà nước công nhận là bảo vật quốc gia năm 2013. Ngoài ra, có hàng linh thú đá 10 con trước cửa Tiền đường và hệ thống tháp mộ ở phía sau chùa.
Tháp đổ, chùa tan, nhưng với những dấu vết hiện còn, với những tầng nền có tường đá kè hùng vĩ, các bậc cửa, các tượng thú và tượng người, bệ tượng và chân tảng bằng đá, được chạm khắc tinh vi, chùa Phật Tích vẫn còn là một thắng cảnh, một công trình nghệ thuật đánh dấu tài năng và trí tuệ của dân tộc ta thế kỷ XI.
Tấm bia "Vạn Phúc đại thiền tự bi", khắc năm Chính Hòa thứ 7 (1686) hiện đã bị gẫy đôi, cho hay thể kỷ XVII xác nhận: "Vua thứ ba nhà Lý, năm Long Thụy Thái Bình thứ 4 (1057) cất lên cây tháp quý cao ngàn trượng, lại dựng pho tượng mình vàng cao 6 thước, cấp hơn trăm thước ruộng, xây chùa chẵn một trăm tòa".
Người thợ - nghệ sĩ dựng chùa đã lưu ý để lại cho đời sau một giấy khai sinh cho công trình của mình rõ ràng với những viên gạch có in dòng chữ "Lý gia đệ tam đế Long Thụy Thái Bình tứ niên tạo" hoặc "Lý gia đệ tam đế Chương Thánh Gia Khánh thất niên tạo". Những dòng chữ ấy cho biết công trình được xây dựng vào đời vua Lý Thánh Tông từ năm 1057 đến 1065 vẫn còn tiếp tục.
Chùa Phật Tích là công trình văn hóa tín ngưỡng hiện còn bảo lưu được nhiều tài liệu, hiện vật cổ có giá trị văn hóa nghệ thuật đặc sắc như: hệ thống bia đá, chân tháp, tháp mộ..., đặc biệt là hệ thống tượng linh thú, các hiện vật trang trí kiến trúc có niên đại từ thời Lý thế kỷ XI, trong đó có pho tượng Phật A DI Đà, đã được Nhà nước xếp loại bảo vật quốc gia năm 2013.
Pho tượng Phật A DI Đà được tạo tác bằng đá xanh, kích thước hiện tại cả bệ cao 2m77 thể hiện Đức Phật Adi đà ngồi tọa thiền trên tòa sen theo lối Kiết Già toàn phần, dáng ngồi thanh thản tự tại. Khuôn mặt tượng Phật A DI Đà mang vẻ đôn hậu viên mãn, ít nhiều được lý tưởng hóa với dạng nhân chủng Ấn Độ. Sắc mặt vừa có vẻ trầm tư, lại lộ vẻ rạng rỡ. Đôi mắt hơi nhìn xuống, sống mũi cao, khóe miệng mỉm cười kín đáo.
Những quí tướng của Phật thể hiện rất rõ trên đỉnh đầu có nhục kháo nổi cao, cổ cao ba ngấn, dái tai dài chạm xuống vai với một nụ sen (nay đã bị sứt mẻ hết). Thân hình cân đối thanh thoát, mình mặc pháp y với hai lớp áo, các nếp được gợi tả rất khéo bằng lối chạm mỏng, mượt mà, mềm mại kiểu áo dính ướt vào thân thể có thể sánh ngang với tác phẩm A DI Đà trong nghệ thuật Phật giáo Trung Quốc đời Đường.
Tuy nhiên Phật giáo đời Đường ít nhiều trông nở nang hơn. Một số pho thời Đường còn thô bành. Còn pho tượng A DI Đà này người ta lại thấy sự mảnh dẻ đã làm nên phong cách và được tạo ra bởi những nếp áo chảy mượt. Cũng do sự mảnh dẻ và những nếp áo chảy mượt mà thoạt nhìn pho tượng ít nhiều có chất nữ tính.
Trái với sự mảnh mai của điêu khắc thân và những nếp áo, thì đôi bàn tay đức Phật lại rất dày, to và được chạm khá tỷ mỷ. Nhìn từ góc độ tạo hình mà nói, đôi tay này đã tạo nên điểm vừa chặn vừa buông những nếp áo tạo nên những sự chuyển động vừa lan tỏa vừa hướng tâm.
Sau khi hòa bình lập lại, năm 1959 chùa Phật Tích được Nhà nước cho xây dựng lại theo quy mô nhỏ để tôn thờ các di vật còn lại. Đến năm 1962, Bộ Văn hóa công nhận là Di sản Văn hóa cấp Quốc gia. Đến năm 1996, chùa được xây lại với quy mô nhỏ gồm các tòa như: Tam Bảo, Hậu đường, nhà tổ, nhà mẫu.
Hiện nay, chùa Phật Tích được nhà nước đầu tư cùng với kinh phí do nhân dân đóng góp tiến hành trùng tu gồm các tòa: Tam bảo, hậu đường, nhà khách, nhà tổ, nhà mẫu đặc biệt là phục dựng pho tượng Phật A Di Đà mới cao 27m, tính luôn bệ là 30m đặt trên đỉnh núi Phật Tích.
Tượng Phật A Di Đà mới nặng 3.000 tấn, dựa trên nguyên mẫu tượng A DI Đà - bảo vật quốc gia được làm bằng đá từ thời nhà Lý được tôn thờ tại Chánh điện. Khi hoàn thiện vào năm 2010, tượng Phật A Di Đà mới đạt kỷ lục là "pho tượng Phật bằng đá lớn nhất Đông Nam Á".