Trong các ngày 9 và 10/9, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chủ trì cuộc họp Bộ Chính trị, Ban Bí thư cho ý kiến về các Đề án quan trọng.
Tại cuộc họp, Bộ Chính trị thảo luận, đánh giá đề án "Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới" đã bám sát và thực hiện đúng Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Hiến pháp năm 2013, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng và tư tưởng chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Đề án cũng ám sát tình hình thực tiễn đất nước và thế giới; vừa kế thừa, phát huy những thành tựu đạt được trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam sau hơn 35 năm đổi mới, vừa tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế, từ đó xác định những mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phù hợp với thực tiễn, định hướng quan điểm, tư tưởng chỉ đạo trong giai đoạn mới, góp phần tạo động lực đưa đất nước ta phát triển nhanh và bền vững, hướng tới mục tiêu trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI.
Bộ Chính trị cho rằng các nội dung trong đề án là những vấn đề lớn, khó, phức tạp, đồng thời Bộ Chính trị khẳng định những nội dung gì đã chín, đã rõ, được thực tiễn kiểm nghiệm, chứng minh là đúng, đa số đồng thuận thì đưa vào đề án và thống nhất thông qua đề án để trình Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Hội nghị Trung ương lần thứ sáu xem xét, ban hành Nghị quyết.
Về đề án "Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045", Bộ Chính trị khẳng định, công nghiệp hoá, hiện đại hóa là chủ trương xuyên suốt và nhất quán của nước ta trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Trong hơn 35 năm đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hóa đã thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở mức cao, chất lượng tăng trưởng được cải thiện, quy mô nền kinh tế tăng nhanh, cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động chuyển dịch tích cực, đưa nước ta trở thành nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình; phát triển văn hoá, xã hội được quan tâm; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân không ngừng được nâng cao.
Bên cạnh đó vẫn còn một số tồn tại, hạn chế như tăng trưởng kinh tế không đạt mục tiêu chiến lược đề ra, tốc độ có xu hướng giảm; nguy cơ tụt hậu và rơi vào bẫy thu nhập trung bình là hiện hữu nếu không quyết liệt đổi mới tư duy và hành động trong thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Bộ Chính trị thống nhất thông qua đề án để trình Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Hội nghị Trung ương lần thứ sáu xem xét ban hành Nghị quyết với mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam hoàn thành công nghiệp hóa và kết thúc giai đoạn đầu của quá trình hiện đại hoá; đến năm 2045, cơ bản hoàn thành quá trình hiện đại hoá, phấn đấu trở thành nước phát triển, có thu nhập cao; là một trong những trung tâm lớn của khu vực Châu Á về sản xuất thông minh và dịch vụ thông minh; xây dựng được nền nông nghiệp hiện đại, phát triển thuộc nhóm hàng đầu thế giới.
Về đề án vùng Tây Nguyên, Bộ Chính trị đánh giá vùng Tây Nguyên là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của cả nước; có tiềm năng và lợi thế để phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp sản xuất hàng hóa lớn kết hợp với công nghiệp chế biến, phát triển công nghiệp năng lượng và công nghiệp khai khoáng; là địa bàn có đông đồng bào các dân tộc anh em cùng sinh sống với bản sắc văn hóa riêng, độc đáo, đa dạng.
Tuy nhiên, kinh tế - xã hội vẫn còn nhiều hạn chế, quy mô kinh tế còn nhỏ, trình độ phát triển thấp, không đồng đều, một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số đời sống còn khó khăn, thiếu đất ở và sản xuất; các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, đất đai để kích động, chống phá, do đó khu vực này cần được tiếp tục quan tâm tạo điều kiện, đầu tư để phát triển trong thời gian tới.
Bộ Chính trị nhất trí với mục tiêu vùng Tây Nguyên đến năm 2030 phát triển nhanh, bền vững dựa trên kinh tế xanh, tuần hoàn, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; phát triển kinh tế nông nghiệp hiệu quả cao, hình thành một số sản phẩm nông nghiệp quy mô lớn có thương hiệu quốc tế gắn với trung tâm chế biến; một số công trình kết cấu hạ tầng giao thông quan trọng, hạ tầng số cơ bản được hình thành; đẩy mạnh việc giải quyết vấn đề đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số; hệ sinh thái rừng và đa dạng sinh học được bảo tồn và phát triển; an ninh nguồn nước được bảo đảm; an ninh khu vực biên giới được giữ vững; an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm; khối đại đoàn kết các dân tộc được củng cố, tăng cường.
Về đề án "Vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam", Bộ Chính trị khẳng định: Vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam luôn là vùng kinh tế động lực, năng động, sáng tạo bậc nhất, đi đầu trong đổi mới và phát triển, là đầu tàu, đóng góp lớn vào tăng trưởng, kinh tế, xuất khẩu, thu ngân sách nhà nước và giải quyết việc làm của cả nước.
Bên cạnh những kết quả, nhiều chỉ tiêu đặt ra chưa đạt được như tốc độ tăng trưởng kinh tế, tỉ trọng đóng góp vào GDP của cả nước, tốc độ tăng năng suất lao động; công nghiệp phát triển chưa bền vững; mạng lưới kết cấu hạ tầng, nhất là hệ thống giao thông, y tế, giáo dục quá tải, thiếu đồng bộ; tiềm lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo chưa đạt mục tiêu; an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội còn tiềm ẩn yếu tố phức tạp, nguy cơ mất ổn định.
Để tiếp tục phát huy những kết quả đạt được, đưa vùng Đông Nam Bộ là động lực tăng trưởng lớn nhất cả nước và thực hiện thắng lợi mục tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030 đã được Đại hội XIII thông qua, Bộ Chính trị nhất trí với mục tiêu đến năm 2030 xây dựng Đông Nam Bộ trở thành vùng phát triển năng động, có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, động lực tăng trưởng lớn nhất cả nước; trung tâm khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, công nghiệp công nghệ cao, logistics và trung tâm tài chính quốc tế có tính cạnh tranh cao trong khu vực.