Tỷ lệ tín dụng/GDP Việt Nam hiện nay đã đạt 124%, là mức cao nhất đối với các nước có mức thu nhập trung bình thấp, theo thống kê của World Bank (WB). Trong khi đó, Moody's thì cảnh báo tỷ lệ tín dụng/GDP của Việt Nam là mức cao nhất của các quốc gia xếp hạng tín nhiệm Ba và Baa.
Tổng dư nợ tín dụng của ngành ngân hàng tiến tới xấp xỉ 12 triệu tỷ đồng - một con số rất lớn. Vì vậy, dư địa điều hành tín dụng trong bối cảnh hiện nay rất hạn hẹp.
Theo đánh giá của ông Phạm Chí Quang – Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước (NHNN), về cơ bản, trong các nguồn lực để tạo ra nguồn vốn phục vụ cho quá trình đầu tư phát triển KT-XH, tín dụng ngân hàng chỉ là một trong các nguồn vốn bên cạnh nguồn vốn tự có của doanh nghiệp, nguồn vốn từ thị trường chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp, nguồn vốn đầu tư công, nguồn vốn FDI, nguồn vốn kiều hối,...
Do đó, để phát triển KT-XH phải khơi thông và tạo được sự kết nối, phát triển đồng bộ của tất cả các nguồn vốn, mà trong đó tín dụng ngân hàng được xem là hạt nhân là mạch máu kết nối các nguồn vốn này.
Tuy nhiên, ông Quang nhấn mạnh rằng, do đặc thù của nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc lớn vào tín dụng ngân hàng nên trong bối cảnh thị trường chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản biến động phức tạp, khó lường, có dấu hiệu thu hẹp, càng gây áp lực lớn lên cân đối vốn tín dụng ngân hàng và công tác điều hành chính sách tiền tệ tới đây.
Ngoài ra, tình trạng giải ngân đầu tư công chậm cũng gia tăng sức ép cung ứng vốn cho nền kinh tế lên tín dụng ngân hàng.
Với đặc thù đó, định hướng điều hành trong năm 2023 của NHNN, bên cạnh việc hỗ trợ quá trình phục hồi tăng trưởng kinh tế thì mục tiêu quan trọng nhất, xuyên suốt là điều hành chính sách tiền tệ đảm bảo giữ được sự ổn định của đồng tiền, kiểm soát được lạm phát.
Từ đó, mục tiêu quan trọng với nội bộ ngành ngân hàng là duy trì được sự hoạt động lành mạnh, ổn định, bền vững của hệ thống tổ chức tín dụng.
Ông Quang nói thêm, thời điểm 2008 khi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu nổ ra thì năng lực quản trị, chất lượng tài sản của bảng cân đối của hệ thống ngân hàng không tốt như giai đoạn hiện nay.
Khi đó hệ thống ngân hàng phát sinh nhiều vấn đề, nợ xấu tăng cao vượt khả năng xử lý của các ngân hàng, một số ngân hàng rơi vào bờ vực phá sản và phải trải qua cuộc vật lộn tái cơ cấu hơn 10 năm cho đến nay.
Giai đoạn hiện nay, hệ thống ngân hàng đối mặt với 2 cuộc khủng hoảng liên tiếp, đại dịch Covid-19 vừa xong, khủng hoảng lạm phát toàn cầu kéo đến.
Theo đó, hệ thống ngân hàng đã vững vàng hơn nhiều, chất lượng bảng cân đối, chuẩn mực quản trị được nâng cao, nợ xấu trong tầm kiểm soát, theo Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ.
Với diễn biến kinh tế vĩ mô và thị trường trong và ngoài nước, với thực trạng hoạt động của hệ thống ngân hàng như đề cập nêu trên, tập trung trong điều hành chính sách tiền tệ của NHNN trong năm 2023 là một mặt tiếp tục hỗ trợ phục hồi, tăng trưởng kinh tế, nhưng mặt khác không chủ quan với lạm phát trong bối cảnh áp lực lạm phát toàn cầu, mức lãi suất Fed còn tiếp tục neo cao và kéo dài đến hết năm 2023.
"Độ trễ của tác động lạm phát nhập khẩu đối với nước ta còn lớn, nên điều hành chính sách tiền tệ không thể chủ quan với các rủi ro này", ông Quang nhấn mạnh.
Để đảm bảo sự ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế thì tín dụng, lãi suất, tỷ giá, các giải pháp, công cụ chính sách tiền tệ khác sẽ được NHNN điều hành rất đồng bộ, linh hoạt nhưng không xa rời mục tiêu kiểm soát lạm phát, trên tinh thần thấm nhuần quan điểm "Dĩ bất biến, ứng vạn biến".
Trong đó, mục tiêu quan trọng nhất của điều hành chính sách tiền tệ năm 2023 là ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, còn cách thức, công cụ điều hành thì rất linh hoạt, tùy từng thời điểm thị trường để tùy cơ ứng biến đưa ra các giải pháp, chính sách, lộ trình phù hợp để vừa hỗ trợ tăng trưởng kinh tế nhưng không lơ là với rủi ro lạm phát.