Trong khuôn khổ Festival "Về miền Quan họ - 2023", tối 25/2, tỉnh Bắc Ninh tổ chức đón nhận Quyết định công nhận 3 hiện vật được công nhận bảo vật quốc gia, gồm: tượng Quan Thế âm chùa Cung Kiệm (huyện Quế Võ); thạp đồng văn hóa Đông Sơn (thành phố Từ Sơn) và bia đá chùa Tĩnh Lự (huyện Gia Bình).
Bắc Ninh là tỉnh giàu truyền thống văn hóa - văn hiến. Tới bất cứ đâu trên mảnh đất này cũng lưu dấu những câu chuyện lịch sử và sống động về truyền thống văn hóa Việt Nam, được kết tinh trong những di sản văn hóa với số lượng phong phú vào bậc nhất so với các địa phương trong nước, được phô diễn trong những di sản văn hóa của làng quê nổi tiếng "Xứ sở của đình, chùa, lễ hội", đậm đà bản sắc Kinh Bắc - Bắc Ninh.
Pho tượng Quan âm được khắc với niên đại sớm nhất ở Việt Nam
Pho tượng Quan âm được tạo tác năm Kỷ Tỵ, niên hiệu Thái Hòa thứ 7 (1449). Đây là pho tượng Quan âm thời Lê Sơ duy nhất hiện còn. Pho tượng này rất quan trọng đối với lịch sử Phật giáo cũng như lịch sử tạo tượng Việt Nam. Cùng với Pho tượng Phật bà Quan âm chùa Bút Tháp tại huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh được khắc năm 1656. Đây là một trong hai pho tương Quan âm được khắc niên đại tuyệt đối ở nước ta.
Tín ngưỡng thờ Quan âm đã được du nhập vào nước ta từ rất lâu nhưng không có một bằng chứng chính xác để xác nhận tín ngưỡng này có mặt tại Việt Nam ở thời điểm nào. Đây là minh chứng cho việc tín ngưỡng thờ cúng Quan âm nước ta đã có từ rất sớm, ít nhất là đã thịnh hành tại miền Bắc Việt Nam từ thế kỷ 15.
Ông Hoàng Minh Tuấn, Phó Trưởng Phòng Văn hóa và Thông tin huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh cho biết, bức tượng Quan âm này là bức tượng Quan âm duy nhất mà được khắc đầy đủ thông tin ở lưng và phần bệ đá của tượng. "Có thể nói là ở trong hệ thống tượng phật quan âm có thể nói là bức tượng duy nhất không có bản thứ hai. Ý nghĩa thứ hai về mặt niện đại lịch sử, bức tượng này từ năm 1449 có ý nghĩa lịch sử rất là quan trọng" - ông Tuấn nói.
Bia Tĩnh Lự thiền tự bi - kiệt tác nghệ thuật thời Lê Trung Hưng
Theo Việt sử lược, chùa Tĩnh Lự được xây dựng năm Ất Mùi (1055), là ngôi chùa đầu tiên do vua Lý Thánh Tông xây dựng. Năm 1645, chùa Tĩnh Lự được chúa Trịnh Tráng trùng tu, mở rộng, công việc hoàn thành năm 1648, lúc này ông cho dựng bia Tĩnh Lự thiền tự bi để ghi chép công việc trùng tu.
Bia Tĩnh Lự thiền tự bi ở chùa Tĩnh Lự, xã Lãng Ngâm, huyện Gia Bình là kiệt tác nghệ thuật của thời Lê Trung Hưng. Đây là hiện vật gốc trong di tích, được dựng theo sự chỉ đạo của chúa Trịnh Tráng để ghi chép về việc trùng tu, mở rộng quy mô chùa Tĩnh Lự. Nội dung văn bia ghi chép về việc trùng tu và những người công đức vào chùa Tĩnh Lự ở thời điểm bấy giờ nên đây là hiện vật mang tính độc bản.
Ông Nguyễn Gia Toản, Phó Trưởng Phòng Văn hóa và Thông tin huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh đánh giá, chính sự độc bản và giá trị nghệ thuật của hai bức tranh ở tấm bia đã được các nhà khoa học, sử học đánh giá giá trị của nó rất là cao.
Điểm nhấn của bia nằm ở hai bức phù điêu, hai bức chạm hai hoạt cảnh khác nhau nhưng cùng một đề tài, đó là đề tài "cầu hiền". Một bên chạm tích vua Thành Thang cử người cầu Y Doãn đang ẩn cư ở đất Hữu Sằn, một bên chạm tích vua nhà Chu phái người cầu Khương Tử Nha (Lã Vọng) đang câu cá trên sông Vị Thủy. Hai tấm đá chạm phù điêu được chạm nổi với kỹ thuật cao, các đồ án, hình tượng được chạm khắc dày đặc trên bề mặt tấm đá nhưng lại rất phóng khoáng và có điểm nhấn đối với thị giác.
Ngoài giá trị về mỹ thuật, kiến trúc, nội dung văn bia cung cấp cho ta rất nhiều giá trị về việc nghiên cứu lịch sử trùng tu, mở rộng chùa Tĩnh Lự. Qua tư liệu về tư liệu thành văn (sử sách, văn bia) và chứng tích khảo cổ học có thể thấy chùa Tĩnh Lự qua các triều đại đều được triều đình quan tâm, qua đó thể hiện vị trí "quốc tự" rất rõ ràng. Như vậy, bia Tĩnh Lự thiền tự bi là một hiện vật đặc biệt là chứng tích cho sự phát triển huy hoàng của chùa Tĩnh Lự với tính chất là một ngôi quốc tự, một đại danh lam đương thời.
Thạp đồng Văn hóa Đông Sơn, 2500 đến 2000 năm cách ngày nay
Hiện vật chiếc thạp đồng của Bảo tàng Hoàng gia Nam Hồng là một trong những sản phẩm đặc trưng, tiêu biểu của văn hóa Đông Sơn. Sự độc đáo trước hết của chiếc thạp này chính là băng hoa văn ở giữa thân, trang trí 14 con thú trong tư thế đuổi nhau, ngược chiều kim đồng hồ. Thú có miệng dài, thân dài và cong, đuôi dài to, bốn chân có móng rõ ràng, phía sau đầu có bờm (mào) dài.
Cho đến nay, đây là chiếc thạp đồng Đông Sơn duy nhất hiện biết ở Việt Nam có trang trí băng hoa văn này. Thạp đồng Đông Sơn của Bảo tàng Hoàng gia Nam Hồng góp phần làm tăng thêm giá trị của kho tàng thạp đồng Văn hóa Đông Sơn ở Việt Nam qua đó đóng góp tư liệu mới, xác thực cho việc tìm hiểu và nhận thức lịch sử - văn hóa thời dựng và giữ nước đầu tiên của dân tộc.