Năng suất cà phê nhân của Tây nguyên cũng cao hơn bình quân 15 tỉnh còn lại từ 20 đến 25%. Kim ngạch xuất khẩu từ 1,77 triệu tấn, đã mang lại cho đất nước 4 tỷ USD (cao hơn kim ngạch xuất khẩu gạo của cả nước khoảng 15-20%).
Hơn nữa, nếu so với Ethiopia là nơi xuất xứ của cây cà phê, thì vẫn thua cà phê của Việt Nam cả về diện tích, năng suất và sản lượng. Về năng suất, cà phê Việt Nam được xếp thứ nhất trong số 50 nước có trồng cà phê trên thế giới, còn Ethiopia xếp thứ 13. Vào năm 2012, năng suất cà phê của Việt Nam cao hơn cà phê của Ethiopia 4,3 lần.
Theo các tài liệu có được, năm 1857 (trước khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta 1 năm), một số linh mục người Pháp mang cà phê chè (Arabica) vào Việt Nam. ban đầu đầu trồng thử ở Hà Nam, Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Trị, sau đó cũng trồng thử ở các tỉnh Tây nguyên và Đông Nam bộ.
Cà phê chè vẫn mọc được trên các vùng đất đã thử nghiệm nhưng cho năng suất thấp, một phần do quảng canh, mặt khác do sâu đục thân và bệnh rỉ sắt phá hại nặng, không thể phát triển rộng rãi được.
Đến năm 1908, người Pháp tiếp tục nhập thêm 2 giống Robusta và Excelsa (cà phê mít) vào trồng. Từ đó Việt Nam tồn tại cả 3 giống cà phê: Cà phê chè (Coffea Arabica), Cà phê vối và Cà phê mít (Coffea Excelsa).
Mặc dầu cà phê được cho là một loại thức uống cao cấp, cây hái ra tiền, nhưng người Việt Nam thời ấy cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, chẳng mấy ai nghĩ đến tách cà phê. Do vậy, dù người Pháp lập ra nhiều đồn điền, bắt phu đi làm cực khổ, nhưng cà phê thu được cũng chỉ dành cho người Pháp. Mãi đến năm 1930, cả nước cũng chỉ trồng được 5.900 ha cà phê, trong đó có 4.700 ha cà phê Arabica, 900 ha cà phê Excelsa và 300 ha cà phê Robusta. Và do chiến tranh liên miên, đến năm 1975, sản lượng cà phê của Việt Nam cũng chỉ có được 6.000 tấn.
Sau năm 1975, nhà nước có chính sách phục hồi và phát triển sản xuất, lại có các chương trình hợp tác giữa Việt Nam với Đức, Tiệp, Ba Lan, Bungari và Liên Xô cũ. Dù vậy, nước ta vẫn bị cấm vận nên chưa có thị trường tiêu thụ loại thức uống cao cấp này ra các nước khác.
Cùng với đó, do điều kiện vật chất, kỹ thuật quá thiếu thốn, mãi đến năm 1986, cả nước cũng chỉ trồng được 50.000 ha cà phê các loại, chủ yếu tập trung vào 5 tỉnh ở Tây Nguyên, cho sản lượng 18.400 tấn, tức bình quân năng suất 380 kg cà phê nhân/ha. Số cà phê này chỉ xuất bán cho các nước theo hợp đồng đã ký. Phần tiêu thụ nội địa rất ít.
Đất nước đổi mới, các hoạt động nghiên cứu khoa học về cà phê được đầu tư tốt hơn, nên Việt Nam sau đó đã xác định được các địa danh và kỹ thuật thích hợp cho từng loại cà phê phát triển.
Với cà phê Chè, dù chất lượng được xếp vào loại hảo hạng, nhưng do chỉ trồng được ở các độ cao từ 600 m trở lên, cần khí hậu mát mẻ và kỹ thuật nghiêm ngặt, khống chế bệnh rỉ sắt và sâu đục thân khá tốn kém, nên dù có thể thích hợp ở địa bàn các tỉnh vùng núi phía Bắc nhưng diện tích gieo trồng cũng bị hạn chế.
Ở Tây Nguyên, cà phê chè đã tìm được quê hương là vùng Lâm Đồng. Nhờ vậy mà khi khách hàng cần đến hương vị của cà phê Chè thì Việt Nam có điều kiện để làm hài lòng một phần do khách hàng mong đợi.
Với giống cà phê Mít, dù có đặc tính chống chịu sâu bệnh khá tốt, sinh trưởng được ở nhiều vùng, nhưng do chất lượng kém hơn cà phê Chè và cà phê Vối, nên diện tích gieo trồng không đáng kể.
Riêng cà phê Vối, sau bao thăng trầm, và cũng trải qua nhiều nghiên cứu, thực nghiệm, các nhà khoa học đã khẳng định vùng Tây Nguyên là nơi cây cà phê Vối sinh trưởng phát triển thuận lợi hơn các vùng còn lại. Bởi không chỉ khí hậu, đất đai rất thích hợp, mà đặc biệt người Tây Nguyên rất cần cù, chịu khó, nhiều năm nay đã tích lũy được kinh nghiệm trồng, chăm sóc và kỹ thuật chế biến, để cây cà phê phát huy được đầy đủ tiềm năng của nó.
Từ năm 1995, khi lệnh cấm vận của Mỹ được dỡ bỏ, Việt Nam có điều kiện giao thương với nhiều giới khách hàng, kết hợp với tập đoàn Vina Caphe được thành lập, đã tạo điều kiện để người trồng cà phê có chỗ dựa vững chắc cho việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Người ta thường nói: "người đẹp nhờ lụa, lúa tốt nhờ phân", cây cà phê cũng không nằm ngoài quy luật ấy.
Khi bang giao được với nhiều nước, nông dân có điều kiện tiếp cận được nhiều nguồn phân bón và thuốc bảo vệ thực vật ngoại nhập, các cơ sở sản xuất phân bón trong nước cũng đua nhau phát triển. Người trồng cà phê được cung cấp giống tốt, kỹ thuật gieo trồng chăm sóc phù hợp, lại có đủ phân bón và kỹ thuật canh tác ngày càng cải tiến, sản phẩm làm ra đã có nơi tiêu thụ đáng tin cậy. Các yếu tố này hợp thành đã tạo ra nguồn cảm hứng mới cho người trồng cà phê, làm cho diện tích, năng suất, sản lượng cà phê của Tây Nguyên, và cả nước ngày càng tăng trưởng rất nhanh chóng.
Điển hình năm 1986, cả nước có 50.000 ha với năng suất chỉ đạt 380 kg/ha, đến năm 1994, diện tích cà phê Việt Nam đã lên đến 150.000 ha, năng suất 1 tấn/ha (tăng 263% so với năm 1986).
Với đà tiến vọt như vậy, diện tích và năng suất cà phêliên tục năm sau cao hơn năm trước. Và sau 20 năm, đến năm 2014, diện tích cà phê Việt Nam đã tăng lên 574.240 ha, đạt năng suất 2.250 kg/ha (tăng 11,5 lần về diện tích và 6 lần về năng suất so với năm 1986).
Với năng suất này, cà phê Việt Nam được xếp hạng nhất so với 50 nước có trồng cà phê trên thế giới, hơn cả Brazil - là nước có điều kiện kinh tế kỹ thuật tốt hơn, trồng cà phê lâu đời hơn và có diện tích cà phê cao gấp 3,7 lần so với Việt Nam.
Theo số liệu của Bộ NN&PTNT, vào năm 2022, diện tích cà phê cả nước đã tăng lên đến 710.590 ha, riêng khu vực Tây Nguyên có 639.000 ha, chiếm 89,90% diện tích cà phê cả nước.
Và cũng chính trong năm 2022, dù đại dịch Covid-19 vẫn còn gây cản trở nghiêm trọng cho sản xuất, lưu thông và phân phối, giá vật tư lại leo thang đến chóng mặt, nhưng Việt Nam vẫn cung cấp ra thị trường 1,77 triệu tấn cà phê (xếp hạng thứ 2 sau Brazil), đạt năng suất bình quân 2.493 kg/ha (cao nhất trên thế giới). Tổng kim ngạch cà phê mang về cho đất nước là 4 tỷ USD, so với 2021 tăng hơn 13,8% về số lượng và 32% về kim ngạch.
Từ năm 2005, Công ty Cổ phần Phân bón Bình Điền trở thành nhà tài trợ chính, để giúp tôn vinh người trồng cà phê.
Kể từ năm 2005, cứ 2 năm, Lễ hội Cà phê Buôn Ma Thuột (Festival Cafe Buon Ma Thuot) sẽ được tổ chức 1 lần. Và Festival Cafe năm nay là lần thứ 8, diễn ra từ ngày 10-14/3/2023 tại thủ phủ cà phê Buôn Ma Thuột - Đắk Lắk.
Bình Điền không chỉ tài trợ về kinh phí, giúp đối tác trong và ngoài nước có điều kiện thảo luận, ký kết các hợp đồng mua bán cà phê, mà còn tham gia tổ chức học thuật; là tài trợ duy nhất và đồng tổ chức Hội thi Nông dân đua tài cho nông dân trồng cà phê 5 tỉnh Tây Nguyên cùng một số tỉnh có diện tích trồng cà phê lớn trong cả nước cùng tham gia.
Trước đại dịch Covid-19, Bình Điền còn tổ chức cho nông dân xuất ngoại, tham quan học tập kinh nghiệm sản xuất, chế biến, phân phối sản phẩm của nông dân các nước.
Sau mỗi lần Festival Cafe, người nông dân hăng hái sản xuất, cải tiến kỹ thuật cho cà phê ngày càng tốt hơn. Lòng tin vào ngành sản xuất nông sản này ngày càng được gắn chặt hơn. Diện tích và năng suất cà phê không ngừng được phát triển. Đó cũng là các nhân tố xác định Tây Nguyên là quê hương mới của cây cà phê, đặc biệt là cây cà phê Vối.