Sự nghiệp giáo dục và nghiên cứu của ông trong các lĩnh vực mới về dưới nước, lặn, và bội áp (y học sử dụng khí ô xy ở mức cao hơn áp suất khí quyển), y học cùng với kinh nghiệm lặn của bản thân đã mang lại cho ông kiến thức thực nghiệm rộng lớn về những tác động sinh lý, nhiễm độc ô xy, thiếu ô xy, hoạt động kéo dài dưới nước ở độ sâu cùng những mối hiểm nguy khác. năm 2000, Hải quân SEALs đã vinh danh Lambertsen với giải thưởng cao quý "Cha đẻ của bơi chiến đấu Mỹ".
Christian James Lambertsen chào đời tại Westfield (tiểu bang New Jersey, Mỹ) vào ngày 15/5/1917 và lớn lên ở vùng lân cận Scotch Plains. Lambertsen thường trải qua những kỳ nghỉ hè ở Jersey Shore, và khi lớn lên một chút, cậu đã kiếm được tiền bằng cách sơn nhà cho một trong những người chú của mình.
Sau khi tốt nghiệp trung học, cậu ghi danh ở một trường cao đẳng ở địa phương. Sau khi nhận được bằng cao đẳng, Lambertsen đã giành được học bổng 2 năm cho phép bản thân theo học ở Đại học Rutgers (New Jersey), và tốt nghiệp với bằng cử nhân khoa học. Tháng 9/1939, cùng tháng Thế chiến II bùng nổ ở Châu Âu, Lambertsen theo học Trường y Đại học Pennsylvania ở Philadelphia.
Lambertsen học về sinh lý học hô hấp, một môn học ít được biết đến tại thời điểm đó. Ông tiến hành nhiều thí nghiệm nghiên cứu về những tác động của chứng thiếu CO2 (tình trạng giảm carbon dioxide trong máu vốn là kết quả của việc tăng thông khí), hypoxia (thiếu ôxy), hypercapnia (tăng CO2, dư thừa carbon dioxide trong cơ thể), và các tình trạng hô hấp khác. Với sự giúp đỡ của những người anh em, Lambertsen đã tiến hành các thí nghiệm dưới nước. Đầu tiên là sử dụng một giàn phục hồi tự chế bao gồm các ống ngậm và chiếc túi được kết nối với một cái ống dài gắn vào máy bơm xe đạp. Những người anh em sẽ vận hành máy bơm cung cấp ôxy sạch trong lúc Lambertsen đang bơi dưới nước. Hệ thống rườm rà này đã nhanh chóng được thay thế bằng xi lanh khí nén ôxy.
Nhưng hệ thống mới đã không đạt yêu cầu như mong đợi khi tích tụ nhiều carbon dioxide trong túi khí của Lambertsen. Ngay sau đó Lambertsen đã biết về một loại thiết bị gây mê mới có dùng chất hấp thụ carbon dioxide để giải quyết vấn đề tích tụ. Được mọi người khuyến khích, Lambertsen đã chế ra một máy lọc khí carbon dioxide nhỏ được gắn vừa vặn giữa miệng và túi thở. Dù có vẻ ngoài thô sơ nhưng máy đã hoạt động trơn tru. Lambertsen đã thông báo cho Tiến sĩ Henry Bazett (giáo sư sinh học giảng dạy cho Lambertsen) về công trình nghiên cứu của mình. Ông Bazett đã nhiệt tình liên hệ với Công ty sản xuất và hóa chất Ohio ở Cleveland (nhà sản xuất thiết bị gây mê) để thông báo cho họ hay về công trình của người học trò và yêu cầu những bộ phận bổ sung. Mùa hè năm 1940, Công ty hóa chất Ohio đã trao cho Lambertsen một công việc với mức lương hấp dẫn 30 USD/ tuần.
Sau cuộc gặp gỡ với chủ tịch công ty Ohio là J.G. Sholes, họ quyết định sẽ chuyển vị trí công tác cho Lambertsen đến Minneapolis (Minnesota), nơi công ty có một nhà máy sản xuất thiết bị gây mê, cũng như đang nghiên cứu về một thiết bị thở dưới nước có thể dùng cho cứu hộ. Kết quả là một máy tái tạo hơi thở nửa kín nặng 5,4 kg với bình ô xy nặng 40 lít và một máy lọc carbon dioxide. Lambertsen tự mình thực hiện các thí nghiệm dưới nước và khám phá ra rằng ông có thể "sống" lâu khoảng 30 phút ở độ sâu 18m. Thành công của những thử nghiệm này đã khiến Lambertsen đề xuất với ông J. G. Sholes rằng thiết bị này rất hữu ích cho những thợ mỏ bị mắc kẹt trong các đoạn đường có bầu không khí nguy hiểm.
Hứng thú với ý tưởng này, ông Sholes đã đặt chế tạo một buồng lớn kín khí đặt trên một ụ tải, nơi họ có thể tiến hành mô phỏng bầu không khí nguy hiểm. Bên trong cấu trúc buồng kín khí Plexiglas® là một con chim hoàng yến, con chó và chính Lambertsen đang đeo thiết bị phục hồi. Buồng này đã xả carbon dioxide nhằm loại bỏ toàn bộ ô xy, và rồi được lấp đầy bằng Cyclopropane – một loại khí gây mê rất dễ cháy – nhằm mô phỏng những điều kiện dưới nước. Khán giả tham dự bao gồm cánh phóng viên báo chí và kênh truyền hình, các đơn vị cảnh sát và sở cứu hỏa, cũng như các quan chức của công ty hóa chất Ohio. Sau vài phút con chim hoàng yến bất tỉnh. Không lâu sau đó, con chó rơi xuống sàn, cũng bất tỉnh. Chỉ khoảng 20 phút của buổi minh họa để Lambertsen cúi người xuống kiểm tra con chó. Lúc làm việc đó, ông cũng ngã xuống sàn bất tỉnh. Ngay tức khắc những người lính cứu hỏa đã dùng rìu phá cửa buồng để giải cứu các nạn nhân.
Một cuộc kiểm tra thiết bị phục hồi của Lambertsen đã nhìn thấy Cyclopropane xâm nhập từ từ vào lớp vỏ mủ của túi thở. Tin tức về buổi mô phỏng đã lan đi khắp cả nước, bởi vì tại thời điểm đó việc dùng thiết bị thở nhân tạo trong 20 phút dưới nước là một thành tích đặc biệt phi thường. Vào lúc Lambertsen quay lại Philadelphia để tiếp tục việc học, ông đã trở thành một ngôi sao. Quan trọng hơn, ông Henry Bazett, một công dân Anh, đã nhìn thấy thiết bị của Lambertsen có thể dùng cho quân đội.
Bazett đã gửi thư giới thiệu cho Bộ Hải quân Anh có đoạn viết: "Chiếc máy này có lợi thế là nhẹ và tự do di chuyển trong nước khiến nó dễ thích nghi cho các binh đoàn dưới nước, hoặc dùng để đột kích vào các tuyến phòng thủ địch vào ban đêm". Ông Bazett cũng sắp xếp một buổi minh họa cho Hải quân Mỹ được tiến hành ở Washington, D.C., cho Đơn vị lặn thử nghiệm hải quân (NEDU) vào tháng Giêng năm 1941. Mặc dù thí nghiệm thành công nhưng hải quân không mặn mà với thiết bị. Tuy nhiên nhà phát minh Lambertsen lại nhận được sự khích lệ từ Trung úy Al Behnke, một viên chức y tế đã chứng kiến buổi thử nghiệm.
Kết quả cho những nỗ lực mới của Lambertsen là sự ra đời của Đơn vị hô hấp lưỡng cư Lambertsen II (LARU II). LARU II có sự sắp xếp tuần hoàn không khí mới cho phép nó loại bỏ carbon dioxide một cách hiệu quả hơn. Một minh họa NEDU lần hai đã được lên kế hoạch vào tháng 4/1942, lần này ngoài các nhân viên hải quân thì còn có sự hiện diện của các đại diện đến từ 2 cơ quan tình báo là Cục chiến dịch đặc biệt của Anh (SOE) và Cục tình báo chiến lược Mỹ (OSS). Cả 2 cơ quan cùng đang tìm kiếm một loại máy thở dưới nước cho phép người nhái thực hiện các hoạt động mật trong dài hạn tại những vùng biển ven bờ, và những người đàn ông ở đơn vị của Lambertsen đã nhìn thấy câu trả lời cho nhu cầu của họ. Phấn khích bởi những gì được thấy, OSS đã sắp xếp để Lambertsen làm việc cho họ trong năm cuối cấp.
Tháng 6/1943, sau khi tốt nghiệp trường y, Lambertsen được OSS tuyển dụng và được phong quân hàm thượng úy trong Quân y quân đội Mỹ (AMC), cũng như được giao nhiệm vụ trong Đơn vị hàng hải OSS mới (OSSMU), nơi ông tiếp tục làm việc với máy thở dưới nước lẫn huấn luyện cho các tay bơi cách sử dụng nó. Khía cạnh khiến cho Đơn vị Lambertsen trở nên đặc biệt hấp dẫn cho cả OSS và SOE là khả năng phục hồi của máy. Máy lọc khí carbon dioxide bao gồm vôi sô đa, không chỉ cho phép người nhái tái sử dụng ô xy trong hệ thống khép kín mà còn không để lại bọt khí xả như thiết bị lặn thông thường.
Một thành viên của OSSMU là Jack Taylor. Là một quân nhân dự bị hải quân, khi đó trung úy Jack Taylor là một trong 3 sĩ quan đầu tiên được bổ nhiệm vào OSSMU khi nó được thành lập vào đầu năm 1942. Taylor bắt đầu huấn luyện ở "Khu vực D", một cơ sở huấn luyện của OSS ngay trên bờ sông Potomac đối diện với căn cứ Thủy quân lục chiến ở Quantico (tiểu bang Virginia). Ngoài việc huấn luyện, những người đàn ông đã thử nghiệm nhiều loại thiết bị bao gồm Đơn vị hô hấp lưỡng cư Lambertsen III (LARU III). Có 2 nhóm bơi dưới nước được ký hiệu là "L-Units" đã được thành lập sau đó. Trong lần thử nghiệm LARU III đó, Jack Taylor đã ở dưới nước hơn 48 phút và bơi hơn 1 dặm, cũng là một thành tựu phi thường khi đó. Sau đó Jack Taylor tiến hành các sứ mệnh bơi chiến đấu ở Địa Trung Hải và Trung Đông.
Bị bắt trong lúc đang tiến hành Chiến dịch Dupont (một nhiệm vụ ở Áo nhằm cố gắng thành lập một chi bộ kháng chiến) vào cuối tháng 11/1944, Jack Taylor được đưa tới trại tập trung Mauthausen. Taylor được quân đội Liên Xô giải phóng vào tháng 5/1945, ông nhận được Huân chương Thập tự hải quân vì đã tham gia vào Chiến dịch Dupont.
Mang tên mã Chiến dịch Cincinnati, đây là cuộc tập trận đầu tiên thuộc thể loại này, được thiết kế để kiểm tra khả năng phòng thủ bờ biển bảo vệ các cơ sở quân sự mà trong trường hợp này là lực lượng phòng thủ hải cảng của Hải quân Mỹ.
Cuộc tập trận bắt đầu vào lúc 8h15 phút tối khi 4 tốp lên chiếc tàu mẹ chất đầy thiết bị hoạt động bao gồm các Đơn vị Lambertsen cho mỗi người nhái. Mỗi tốp được giao các thiết bị và tàu vận chuyển khác nhau với mục tiêu là xem loại nào phù hợp. Tốp Đỏ dùng ván chèo cao su, Tốp Xanh có những chiếc xuồng kayak cho 2 người chèo, Tốp Đen dùng con thuyền cao su cho 7 người, cuối cùng là Tốp Cam sử dụng "tấm thảm bay". Chiến dịch Cincinnati đã thành công mỹ mãn: 4 tốp cùng thực hiện nhiệm vụ trôi chảy mà không bị phát hiện. Việc triển khai trên thực địa đã bắt đầu ngay tháng 1/1944, các đơn vị người nhái được gửi tới nhiều chiến trường.
Chúng bao gồm các hoạt động phá hoại, tấn công lén lút, chở vũ khí, đặc vụ, và tiếp liệu cho các đơn vị kháng chiến, di tản máy bay bị bắn rơi và người tị nạn từ các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng. Các tốp ở Anh cũng tiến hành những hoạt động tương tự ở Scandinavia. Trong khi đó SOE đã chế tạo một tàu ngầm lặn 1 người tương tự như các tàu ngầm được hải quân Ý sử dụng. Sự tham gia của Lambertsen vào hoạt động đặc biệt Sleeping Beauty đã bắt đầu từ tháng 1/1944.
Công việc của Lambertsen với hoạt động đặc biệt Sleeping Beauty cuối cùng đã trở thành nền tảng cho khái niệm tàu chở người nhái. Lambertsen giải ngũ năm 1946 với quân hàm thiếu tá. Ông còn gặt hái sự nghiệp rực rỡ trong ngành y.
Năm 1968, Lambertsen thành lập nên Viện Y học môi trường tại Đại học Pennsylvania. Lambertsen nhận được nhiều danh hiệu cao quý, đáng chú ý là Bằng khen đơn vị Tổng thống vì đã phục vụ cho Đơn vị 101 của OSS tại Miến Điện, hoặc Tư cách thành viên danh dự trọn đời trong Hiệp hội Phá đỡ dưới nước (UDT) của Hải quân SEALs, cũng như Giải thưởng phụng sự xuất sắc của Hiệp hội OSS.