Kết luận của Thanh tra Chính phủ nêu rõ các khuyết điểm, vi phạm của Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) khi kiểm tra hồ sơ cấp tín dụng của 16 khách hàng.
Cụ thể, 16 khách hàng được kiểm tra có tổng dư nợ tại thời điểm 31/8/2018 là 15.218 tỷ đồng, phân loại nợ nhóm 1 chiếm 6,2% tổng dư nợ của ngân hàng. Kết quả cho thấy, có thiết sót trong việc thẩm định điều kiện cho vay vốn như: Phương án vay vốn không đảm bảo tính khả thi đối với Công ty TNHH Đầu tư và phát triển BĐS Office 85, CTCP Đầu tư Long Biên, CTCP Đồng Tâm), khả năng tài chính để trả nợ chưa đảm bảo (CTCP Đầu tư và phát triển Bất động sản Dấu ấn Sài Gòn, Công ty TNHH Vina Alliance, Công ty TNHH BĐS Trí Đức).
Sacombank cho vay để thực hiện dự án nhưng dự án chậm tiến độ, làm phát sinh chi phí lãi vay lớn, ảnh hưởng đến hiệu quả phương án kinh doanh đã được ngân hàng phê duyệt và nguồn trả nợ theo Phương án vay (CTCP Đầu tư và phát triển Bất động sản Dấu ấn Sài Gòn; Công ty TNHH SXTM Soài Rạp; Công ty TNHH Vina Alliance, Công ty TNHH BĐS Trí Đức).
Ngân hàng có thiết sót trong việc cấp tín dụng cho CTCP Đồng Tâm để trả nợ khoản vay tại chính ngân hàng (Đến 31/12/2018, khách hàng đã tất toán khoản vay tại CN Điện Biên Phủ).
Ngân hàng chưa thu thập đầy đủ chứng từ chứng minh mục đích sử dụng vốn vay đối với khoản vay của Công ty TNHH Đầu tư và phát triển BĐS Office 85, CTCP Đầu tư Long Biên, CTCP Đồng Tâm.
Ngoài ra, Sacombank phân loại nợ không đúng quy định (Công ty TNHH SXTM Soài Rạp). Cụ thể, khách hàng trả lãi lần đầu chậm hơn 6 tháng, tương đương 208 ngày, theo quy định phải chuyển nợ nhóm 4, nhưng Sacombank vẫn phân loại nhóm 1. Tuy nhiên, đến kỳ trả nợ lãi tháng 8/2018 (6 tháng) khách hàng đã trả đầy đủ, đúng hạn theo hợp đồng tín dụng.
Ngoài ra, theo kết luận thanh tra hoạt động cho vay cho thấy bất cập trong quy định về giới hạn, điều kiện cấp tín dụng để mua cổ phần vốn góp. Theo đó, Sacombank cho khách hàng (Công ty TNHH Bất động sản Trí Đức) vay vốn để mua 62% phần vốn góp tại Công ty TNHH và thế chấp bằng chính phần vốn góp tại Công ty TNHH và thế chấp bằng chính phần vốn góp tại Công ty TNHH đó trong thời gian 3 năm. Theo Thanh tra Chính phủ, bản chất việc cấp tín dụng này tương tự việc "cấp tín dụng để đầu tư, kinh doanh cổ phiếu". Tuy nhiên, pháp luật hiện hành chỉ quy định điều kiện, giới hạn cấp tín dụng để đầu tư, kinh doanh cổ phiếu theo hình thức góp vốn, mua cổ phần của công ty cổ phần, chưa quy định đối với việc góp vốn, mua cổ phần của công ty cổ phần, chưa quy định đối với việc góp, mua cổ phần của công ty TNHH.
Đáng chú ý nhất, theo Thanh tra Chính phủ có 9 khách hàng kiểm tra bao gồm: Công ty CP Him Lam Thủ Đô, Công ty CP đầu tư Hồng Bàng, Công ty CP ĐTXD Bảo Lộc, Công ty CP đầu tư TMDV Nam Thắng, Công ty CP TMXD Công Phúc, Công ty CP hạ tầng Bảo Tín, Công ty CP ĐTXD Việt Phú Mỹ, Công ty CP QLĐTXD Việt Hà, Công ty CP XDTMDVDL Hiệp Ân, có dư nợ tính đến cuối tháng 8/2018 là 9.262 tỷ đồng. Con số này chiếm 48,52% vốn tự có của Sacombank.
Đáng nói, mục đích vay của 9 khách hàng nêu trên để nhận chuyển nhượng và đầu tư cùng 1 dự án. 9 khách hàng này không có mối quan hệ liên quan theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng, không trực tiếp thực hiện dự án mà vay để chuyển bên thứ 3 thông qua hình thức ký hợp đồng nguyên tắc chuyển nhượng các phân khu thuộc dự án.
Trong khi đó, việc thẩm định năng lực tài chính để thực hiện dự án chỉ dừng lại ở 9 khách hàng vay vốn, không thẩm định với đơn vị thực hiện dự án, tiềm ẩn rủi ro. Do đến thời điểm thanh tra, dự án đang gặp nhiều khó khăn về pháp lý đất đai trong thời gian kéo dài, làm tăng chi phí lãi vay ảnh hưởng chất lượng tín dụng và kết quả kinh doanh của Sacombank trong giai đoạn thực hiện Đề án tái cơ cấu.
Cũng theo Thanh tra Chính phủ, kiểm tra hồ sơ vay vốn của 9 khách hàng tại Sacombank phát hiện một số thiết sót, vi phạm.
Thứ nhất, một số khách hàng cung cấp số liệu báo cáo tài chính sai lệch giữa số liệu gửi Sacombank và cơ quan thuế. Các doanh nghiệp gồm: CTCP TMXD Công Phúc, CTCP ĐTXD Việt Phú Mý, CTCP ĐT và TMDV Nam Thắng.
Hai là, Sacombank cũng chưa kiểm soát chặt chẽ việc một số khách hàng cùng vay vốn tại ngân hàng này và ngân hàng khác để giải ngân cho hợp đồng chuyển nhượng phân khu thuộc dự án của Công ty SDI.
Ba là, việc kiểm tra sau cho vay chưa ghi nhận, đánh giá đầy đủ tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, khó khăn về pháp lý của dự án; cho vay thực hiện dự án nhưng dự án chậm tiến độ, phát sinh chi phí lãi vay lớn, làm ảnh hưởng tới hiệu quả phương án đầu tư kinh doanh đã được NH phê duyệt khi cho vay.
Bốn là, rủi ro, bất cập trong xác định tính pháp lý của TSĐB dùng thế chấp chung cho khoản vay của 9 khách hàng là toàn bộ các quyền tài sản/lợi ích từ dự án trong điều kiện dự án chưa có đầy đủ các hồ sơ pháp lý về quyền sở hữu dự án.
Ngoài ra, còn có bất cập trong trường hợp xử lý TSĐB là toàn bộ các quyền tài sản/lợi ích thu được mà chủ đầu tư có được từ hoạt động đầu tư, kinh doanh, khai thác Dự án do khách hàng vay vốn (bên nhận chuyển giao quyền tài sản) không được tiếp tục kế thừa quyền và nghĩa vụ thực hiện dự án đang dở dang theo quy định của pháp luật đất đai, đầu tư, xây dựng.