Ðền Bạch Mã ở phố Hàng Buồm (Hà Nội) ngày nay còn tương truyền về câu chuyện, một vị thần chủ kinh thành Thăng Long từng làm cho Cao Biền một phen bẽ mặt phải xây đền thờ Ngày ở đây.
Theo thông tin ghi chép tại đền Bạch Mã, đền Bạch Mã tọa lạc tại số 76 phố Hàng Buồm, phường Hàng Buồm, thuộc trung tâm phố cổ Hà Nội.
Đền Bạch Mã thờ thần "Long Đỗ - Thần Quảng Lợi Bạch Mã Đại Vương". Long Đỗ là vị thần thành hoàng của kinh thành Thăng Long. Sách cổ "Việt điện u linh" chép: Khu đô hộ Cao Biền đắp La Thành (thế kỷ IX sau Công nguyên) đã có cuộc đấu phép với thần Long Đỗ.
Một hôm Cao Biền đang vơ vẩn dạo chơi ngoài thành cửa Đông, thấy có đám mây 5 màu rực rỡ bốc lên từ mặt đất, rồi tụ lại ở không trung. Giữa đám mây mông lung mờ ảo, Cao Biền thấy hiện ra một người cưỡi rồng vàng, đầu đội mũ hoa đỏ, mình mặc áo tía xiêm thêu, đi giầy đỏ. Rồi mùi thơm tỏa ra ngào ngạt, tiếng nhạc vang lừng, hồi lâu mới tan đi.
Đêm hôm đó, Cao Biền mộng thấy người gặp lúc ban chiều. Người ấy bảo Cao Biền rằng: “Ta là Long Đỗ vương khí quân, thấy ông mở rộng kinh thành thì đến xem chơi, chớ có ngờ”. Cao Biền tỉnh dậy sai bọn thủ hạ dựng đền tô tượng, rồi ngầm dùng một tấm sắt đồng làm bùa trấn yểm. Bỗng một trận cuồng phong nổi lên quật đổ cây to, làm cho tất cả đồ yểm bằng sắt đồng đều biến thành cát bụi.
Cao Biền sợ hãi, biết không thể thần phục vị thần đất Việt liền than thở: “Ta sẽ phải về đất Bắc thôi”. Quả nhiên sau đó, Biền phải trở về Trung Quốc.
Trong sách cổ cũng ghi, năm 1010, Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long và bắt đầu công cuộc xây dựng thành nhưng đắp thành nhiều lần không được, ba lần xây thành nhưng cứ xây xong lại đổ. Vua cho người đi hỏi dân chúng, mới biết ở đất này có hiển linh từ trước, vua bèn sai biện lễ cầu đảo.
Đêm ấy vua nằm mộng gặp thần Long Đỗ tới chúc mừng và dặn nhà vua rằng cứ theo dấu vó ngựa mà đắp, tất sẽ thành công. Bấy giờ vua thấy Ngựa trắng từ đền ra, đi một vòng từ đông sang tây rồi lại quay về đền biến mất. Hôm sau, nhà vua thấy có dấu chân ngựa in trên mặt đất bèn sai người cứ theo đó mà xây thành đắp lũy, quả nhiên xây tới đâu được tới đấy.
Tạ ơn thần linh trợ giúp, vua bèn cho tạc tượng ngựa trắng để thờ, sắc phong thần Long Đỗ làm “Quốc đô Định bang Thành Hoàng Đại Vương” và cho gọi tên ngôi đền thờ thần là “Bạch Mã linh từ” (đền thiêng Ngựa trắng).
Trải qua các triều đại, ngôi đền còn được trùng tu nhiều lần sau đó. Đây là một ngôi đền lớn quy mô bề thế còn lưu giữ được những nét kiến trúc đặc sắc thời Lý, Trần, Nguyễn.
Ðền có kiến trúc đẹp mang đậm phong cách kiến trúc nghệ thuật cổ, rất đa dạng, phong phú và hấp dẫn thông qua các hoa văn họa tiết chạm trổ tinh xảo tại các bộ vì, cột, kèo, xà ngang được làm bằng gỗ quý và các chân đá kê hình lục giác, hình tròn.
Ðền còn lưu giữ được 15 tấm bia đá cổ ghi lại việc sửa đền, quy định tuổi lên lão, thể lệ đóng góp, tập tục ăn uống, việc chúa Trịnh cho phép được miễn sưu dịch, tiền thuế để trông nom, chăm sóc đền. Ngoài ra đền còn giữ được nhiều sắc phong của các triều vua từ thời Lê, Tây Sơn đến triều Nguyễn, cùng nhiều hiện vật, đồ thờ tự quý hiếm khác. Ðền đã được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia năm 1986.
Tương truyền, đền Bạch Mã nổi tiếng linh thiêng. Thời ấy, ở cửa Ðông có mở chợ buôn bán. Phố phường bị hỏa hoạn, gió thổi mạnh cháy rất nhiều, duy chỉ có đền là không bị lửa bén tới. Vua lại gia phong cho hưởng lộc, các buổi lễ nghinh xuân đều được cử hành tại đây. Ðời Trần, ba lần phố Cửa Ðông bị cháy, lửa lan đến phố Hàng Buồm nhưng đền vẫn nguyên vẹn.
Với hơn 1.000 năm lịch sử, đền Bạch Mã là một trong những di sản tiêu biểu của Thủ đô Hà Nội. Lễ hội của đền được tổ chức vào ngày 12 và 13 tháng hai âm lịch hằng năm, là sự dung hòa giữa văn hóa tín ngưỡng dân gian và nghi thức cúng cung đình, tạo nên nét đặc sắc riêng biệt.
Giáo sư sử học Lê Văn Lan cho biết, đền Bạch Mã là ngôi đền cổ nhất của Hà Nội. Không chỉ cổ nhất mà còn biết được cụ thể niên đại của sự cổ kính đó: Niên đại khởi dựng 866, có nghĩa đến nay ngôi đền đã có 1.154 năm tuổi.
Bên cạnh đó, tại di tích này còn hàm chứa giá trị lịch sử, với 3 hiện tượng tâm linh liên quan đến vấn đề giữ nước, bảo vệ Tổ quốc trước các thế lực phương Bắc; dựng nước gắn với quá trình xây dựng và bảo vệ kinh thành Thăng Long; và giúp dân an sinh xã hội.