Dương Nhật Lễ (? – 1370), tên ngoại giao với Trung Quốc là Trần Nhật Kiên, thụy hiệu Hôn Đức công, hoàng đế thứ 8 của Vương triều Trần nước Đại Việt.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Dương Nhật Lễ vốn là con của kép hát Dương Khương. Mẹ ông là một người múa hay lại có nhan sắc, do hay diễn Tây Vương Mẫu trong vở Vương Mẫu hiến bàn đào nên bà được gọi là Vương mẫu. Khi Vương mẫu đang có mang thì bị Cung Túc vương Trần Nguyên Dục, anh cùng mẹ của Trần Dụ Tông, lấy làm vợ. Khi Dương Nhật Lễ sinh ra, Cung Túc vương Dục nhận làm con mình. Không rõ Dương Nhật Lễ sinh năm nào.
Trong hoàng gia Đại Việt, Cung Túc vương Nguyên Dục là con đích trưởng của vua Trần Minh Tông với Hiến Từ Hoàng hậu. Trần Minh Tông cho là Nguyên Dục ngông cuồng nên không cho nối ngôi, lại lập con thứ 2 với Hiến Từ là Dụ Tông Hạo làm vua. Tháng 10 âm lịch năm 1364 đời Trần Dụ Tông, Cung Túc vương chết.
Ngày 25 tháng 5 năm Kỷ Dậu (tức 29 tháng 6 năm 1369), vua Trần Dụ Tông qua đời. Trước khi mất, Trần Dụ Tông đã ban chiếu truyền ngôi cho Dương Nhật Lễ. Hiến Từ Thái hậu đồng ý di chiếu cho đón ông lên ngôi, đặt niên hiệu Đại Định. Đại Việt sử ký toàn thư kể ông truy tặng Cung Túc vương là Hoàng thái bá. Nam Ông mộng lục cho biết thêm, việc ông bổ dụng các anh khác mẹ của Trần Dụ Tông là Cung Tĩnh vương Trần Nguyên Trác làm Thái tể, Cung Định vương Trần Phủ làm Thái sư, Cung Tuyên vương Trần Kính làm Hữu Tướng quốc.
Cùng lúc này, sứ đoàn nhà Minh sang sắc phong cho Trần Dụ Tông tới Đại Việt. Dương Nhật Lễ (tên ngoại giao với nhà Minh là Trần Nhật Kiên) xin được thụ phong nhưng sứ nhà Minh là Trương Dĩ Ninh không đồng ý. Dương Nhật Lễ phải cử sứ là Đỗ Thuấn Khâm sang nhà Minh báo tang và cầu phong.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư ghi nhận, Đại Định Đế lên ngôi nhưng bỏ bê công việc, ham chơi, rượu chè, cho đón cha ruột Dương Khương vào triều giữ chức Lệnh thư gia, có ý đổi sang họ Dương khiến các quan trong triều bất bình. Hiến Từ Thái hậu, mẹ Trần Dụ Tông tỏ ý hối hận việc lập Dương Nhật Lễ. Dương Nhật Lễ bèn ngầm đánh thuốc độc giết chết vào ngày 14 tháng 12 năm Kỷ Dậu (tức 12 tháng 1 năm 1370).
Đêm ngày 20 tháng 9 năm Canh Tuất (tức 9 tháng 10năm 1370), cha con quan Thái tể Trần Nguyên Trác, Trần Nguyên Tiết và hai người con của Thiên Ninh công chúa (chị gái cùng mẹ của Trần Dụ Tông) đem người tôn thất vào thành định giết Đại Định.
Đại Định Đế trèo qua tường, nấp dưới cầu mới. Mọi người lùng không thấy, giải tán ra về. Khi trời sắp sáng, Đại Định Đế vào cung, chia người đi bắt Nguyên Trác cùng 17 người chủ mưu và giết hết.
Sau khi vua Đại Định xử tử Trần Nguyên Trác, Thái sư Cung Định vương Trần Phủ, vì có con gái làm Hoàng hậu của Dương Nhật Lễ, sợ vạ lây đến mình nên tránh ra trấn Đà Giang (tức Gia Hưng), ngầm hẹn với các em là Hữu Tướng quốc Cung Tuyên vương Trần Kính, Chương Túc thượng hầu Trần Nguyên Đán, Thiên Ninh công chúa Ngọc Tha hội ở sông Đại Lại, phủ Thanh Hóa để dấy quân. Trần Kính giúp anh đảm nhận việc sắm sửa mọi vũ khí, trang bị quân đội.
Khi ấy, Đại Định Đế Dương Nhật Lễ chuyên dùng Thiếu úy Trần Ngô Lang mà không biết Ngô Lang đồng mưu với Trần Phủ. Mỗi khi sai quân tướng đi đánh bắt, Trần Ngô Lang đều bí mật bảo họ theo Trần Phủ đừng về nữa. Rất nhiều lần sai các quân Nam, Bắc đi đánh, đều không một ai trở về. Do đó quân của Trần Phủ, Trần Kính mạnh thêm.
Ngày 13 tháng 11 năm Canh Tuất (tức 1 tháng 12năm 1370) Cung Định vương đến phủ Kiến Hưng. Trần Ngô Lang khuyên Dương Nhật Lễ đích thân thảo thư thoái vị và nhận tội, đem dâng cho Cung Định vương. Dương Nhật Lễ gặp Cung Định vương, quỳ xuống nhận tội, bị phế làm Hôn Đức công. Ngày 15, Cung Định vương lên ngôi, tức Trần Nghệ Tông. Ngày 21 tháng ấy, Trần Phủ cùng Trần Kính và Thiên Ninh công chúa dẫn quân về kinh, sai giam Dương Nhật Lễ ở phường Giang Khẩu.
Dương Nhật Lễ tới lúc đó mới biết mình bị Trần Ngô Lang phản bội. Trong khi bị giam giữ, ông lừa gọi Trần Ngô Lang đến bảo: "Ta có lọ vàng chôn ở trong cung, ngươi đi lấy về đây". Trong lúc Trần Ngô Lang quỳ xuống, Dương Nhật Lễ bóp cổ giết chết Trần Ngô Lang. Cháu Ngô Lang là Trần Thế Đỗ tâu với Trần Nghệ Tông; nhà vua bèn lập tức hạ lệnh đánh chết Dương Nhật Lễ và con ông là Liễu, rồi sai đem chôn ở núi Đại Mông.
Sau khi Dương Nhật Lễ mất, mẹ ông sang Chiêm Thành cầu cứu vua Chế Bồng Nga sang đánh Đại Việt báo thù. Chiêm Thành đã xung đột với Đại Việt từ thời Lê, Lý, thường hay bị thua. Đến đời Chế Bồng Nga, vua này cùng thủ tướng là La Khải (Ko Ceng) ra sức bảo ban, huấn luyện quân sĩ nên Chiêm Thành quật khởi rất mạnh. Nghe lời mẹ Dương Nhật Lễ, Bồng Nga đem quân đánh kinh đô Thăng Long, đốt phá cung thất, gây nhiều phiền toái cho các vua Trần từ Nghệ Tông trở về sau.
Dương Nhật Lễ ở ngôi được hơn 1 năm, không rõ thọ bao nhiêu tuổi. Nhà Trần lúc đó đã suy yếu, các tôn thất bạc nhược. Nhiều việc thất đức của Dương Nhật Lễ lẽ ra chưa dẫn đến việc bị phế truất. Tư tưởng phong kiến không chấp nhận người dị tộc làm vua trong triều, bởi vậy sai lầm lớn nhất của Dương Nhật Lễ là định đổi sang họ Dương khiến tôn thất nhà Trần nắm quyền bính khắp trong nước xúm lại tìm cách lật đổ. Tính từ khi Dương Nhật Lễ lên ngôi cho tới khi cuộc đảo chính đầu tiên xảy ra tới 1 năm nhưng không có ai chống đối vì khi đó Dương Nhật Lễ vẫn giữ họ Trần.