Cách đây không lâu, hai bộ phim cung đấu là "Diên Hi công lược" và "Hậu cung Như Ý truyện" từng được nhiều khán giả Việt Nam quan tâm theo dõi.
Trong bộ phim "Diên Hi công lược", sau khi lên ngôi một thời gian dài, hoàng đế Càn Long Đế mới phát hiện ra vị Thái hậu ôn nhu, thấu hiểu lòng người mà ông ngày đêm kính trọng chỉ là mẹ nuôi. Ngược lại, trong phim "Hậu cung Như Ý truyện", trước khi đăng ngôi đại bảo, Càn Long đã biết thân mẫu nuôi dưỡng mình bao nhiêu năm qua chỉ là mẹ nuôi...
Xoay quanh mối quan hệ giữa Càn Long và Sùng Khánh Hoàng thái hậu, trong dân gian cũng xuất hiện nhiều giai thoại khác nhau. Có truyền thuyết kể lại rằng, do Ung thân vương (tức Ung Chính sau này) muốn lấy lòng Khang Hi Đại Đế để ngồi lên ngai vàng đã đánh tráo con gái của mình lấy con trai của Trần Các Lão - một viên quan người Hán có quan hệ mật thiết với ông. Do từng trải chốn quan trường nên Trần Các Lão đã dọn nhà về quê ở Hải Ninh sinh sống, để Ung Thân vương yên tâm mà cho gia đình ông một con đường sống. Và đứa con trai của Trần gia sau khi vào Ung vương phủ đã được Ung Thân vương đặt tên cho là Hoằng Lịch, tức Càn Long sau này.
Sau khi Càn Long biết về thân thế thật của mình, trong thời gian trị vì của mình, Càn Long đã 6 lần xuống Giang Nam du tuần. Trong đó, có tới 4 lần ông chọn Hải Ninh là điểm nghỉ chân và đều chọn ở lại tại phủ nhà họ Trần. Chính vì lẽ đó mà hậu thế đều tin rằng ông tới đây để thăm lại cha mẹ đẻ của mình, đi tuần Giang Nam chẳng qua chỉ là cái cớ.
Tuy nhiên, lịch sử lại khác xa những gì xuất hiện trên phim ảnh và những lời đồn đại trên. Hoằng Lịch - Càn Long Đế thực chất là con trai thứ 4 của Ung Chính và Sùng Khánh Hoàng Thái hậu (1692 - 1777).
Sùng Khánh Hoàng Thái hậu là người của dòng tộc Nữu Hỗ Lộc thị ở Núi Trường Bạch, ngọc phả ghi chép kỳ tịch là Mãn Châu Tương Hoàng kỳ. Gia tộc bà là một chi xa của đại gia tộc Nữu Hỗ Lộc của Hoằng Nghị công Ngạch Diệc Đô, khai quốc công thần thời đầu Đại Thanh, được xưng là "Danh môn trung danh môn", cực kỳ hiển hách. Hiếu Chiêu Nhân hoàng hậu cùng Ôn Hi Quý phi đều là cháu nội của Ngạch Diệc Đô.
Tằng tổ phụ của bà là Tát Mục Cáp Đồ, đương thời là bá phụ của Hoằng Nghị công Ngạch Diệc Đô. Tát Mục Cáp Đồ sinh 2 con: Ngạch Diệc Đằng và Ngô Nột Hách. Ngạch Diệc Đằng sinh 3 con: Phật Tôn, Ngô Lộc và Sát Mục Đạt. Ngô Lộc sinh 2 con: Lăng Thái và Lăng Trụ. Bà là con gái của Lăng Trụ, làm chức Điển nghi hàm Tứ phẩm, lúc này gia đình gần như là bình dân, mẹ bà là Bành thị, con gái Bảo Trì huyện học sinh Bành Vũ Công. Ngoài ra, trong nhà bà còn có 4 người anh em khác: Y Thông A, Y Tùng A Hòa, Y Tam Thái và Y Thân Thái.
Tuy thuộc thị tộc Nữu Hỗ Lộc nhưng chi của gia đình bà là một chi họ hàng xa, trước khi nhập kỳ đã phân ra với nhà Ngạch Diệc Đô, nhập kỳ theo cũng chỉ là do họ hàng nên bị phân ở Mãn Châu Tương Bạch kỳ. Tuy là họ xa, nhánh họ của Sùng Khánh Hoàng thái hậu không thể hưởng vinh quang vốn có từ Hoằng Nghị công phủ Nữu Hỗ Lộc, mà chỉ là một nhà bình thường trong kỳ do tổ tiên các đời đều chỉ là dân thường không làm quan. Trong gia tộc này, chỉ có cha bà Lăng Trụ xuất sĩ làm chức Điển nghi cho phủ Hoàng tứ tử. Chức Điển nghi này là dạng quan viên tầm trung, do xuất thân không cao quý nên Sùng Khánh Hoàng thái hậu Nữu Hỗ Lộc thị sau đó phải dùng thân phận Cách cách vào hầu Bối lặc Dận Chân (Vua Ung Chính sau này). Thời điểm xác định bà vào hầu là năm Khang Hi thứ 43 (1704), khi ấy bà chỉ mới 13 tuổi.
Năm Khang Hi thứ 50 (1711), ngày 13 tháng 8 (tức ngày 25 tháng 9 dương lịch), Nữu Hỗ Lộc thị sinh hạ đứa con trai tên Hoằng Lịch - là con trai thứ tư của Ung Thân vương Dận Chân. Năm Hoằng Lịch 10 tuổi, Nữu Hỗ Lộc thị lần đầu theo Ung Thân vương vào bái kiến Khang Hi Đế trong một buổi yến tiệc tại Mẫu Đơn đài ở Viên Minh Viên. Khang Hi Đế thấy Hoàng tôn Hoằng Lịch thông minh hơn người thì thập phần yêu thích, liền đón vào cung cho đọc sách, giao cho Khác Huệ Hoàng quý phi cùng Đôn Di Hoàng quý phi nuôi nấng. Nhờ đó, Nữu Hỗ Lộc Cách cách cũng được khen ngợi biết dạy con, được Ung Thân vương coi trọng, và được chính vua Khang Hi ưu ái nhận xét là “phúc hậu lạ kỳ”.
Năm 1722, vua Khang Hi băng hà, Ung Thân vương lên ngôi Ung Chính Hoàng đế. Đích Phúc tấn Ô Lạt Na Lạp thị sắc phong lên Hoàng hậu, Trắc Phúc tấn Niên thị được lập làm Quý phi, Trắc Phúc tấn Lý thị tấn phong làm Tề phi, còn Cách cách Nữu Hỗ Lộc thị làm Hi phi.
Vốn dĩ, theo lệ Nữu Hỗ Lộc thị chỉ được sắc phong lên chức Tần nhưng do trước đây bà có công chăm sóc Ung Thân vương, lại có con trai Hoằng Lịch thông minh hết phần thiên hạ, nên được ưu ái phong tước Phi. Cuối cùng, Hoàng hậu và Niên Quý Phi đều tạ thế, Hi Phi tiến thêm một bước trở thành Hi Quý phi, danh chính ngôn thuận thống lĩnh cả hậu cung.
Sau khi trị vì 12 năm, vua Ung Chính băng hà, nhường ngôi cho tứ a ca Hoằng Lịch, lấy niên hiệu là Càn Long. Lúc này, Càn Long đã tôn mẫu thân là Hi Quý phi trở thành Sùng Khánh Hoàng Thái hậu.
Sùng Khánh Hoàng thái hậu hưởng thọ 86 tuổi, trong đó có tới 43 năm giữ vị trí Hoàng thái hậu, trở thành người sống thọ nhất trong số các Thái hậu của nhà Thanh. Không chỉ vậy, Sùng Khánh Hoàng thái hậu lại sống vào thời “Khang - Càn thịnh thế” nên mọi vinh hoa phú quý trong thiên hạ bà đều từng nếm trải qua.
Tấm lòng hiếu thảo của Càn Long Đế đối với Sùng Khánh Hoàng thái hậu luôn được hậu thế ca ngợi và được coi là tấm gương của mọi người con trong thiên hạ. Cụ thể, trong những chuyến Nam tuần, Càn Long đều đưa Sùng Khánh Hoàng thái hậu đi thưởng ngoạn, đồng thời cũng hỏi ý kiến bà trong một số công việc. Khi Thái hậu tuổi đã cao, Càn Long cũng dừng lại mọi chuyến du ngoạn và chỉ tiếp tục xuất hành khi bà qua đời. Năm đại thọ 60 tuổi của Thái hậu, Càn Long do muốn thân mẫu của mình được nhìn ngắm phong cảnh phương Nam của Trung Quốc ngay tại Tử Cấm Thành nên đã ra lệnh xây một phố thị theo phong cách của Tô Châu. Cho các thái giám, cung nữ đóng giả thành người mua kẻ bán tấp nập để mô phỏng cuộc sống thường ngày ở Tô Châu.
Năm Sùng Khánh Hoàng thái hậu 86 tuổi, Càn Long Đế cũng đã 67 tuổi. Do đó, Càn Long Đế muốn tổ chức một bữa tiệc thật long trọng để chúc mừng đại thọ 90 tuổi của Thái hậu cũng như lễ mừng thọ 71 tuổi của ông. Tuy nhiên, người tính không bằng trời tính, vào đầu tháng 1/1777, Thái hậu đột nhiên đổ bệnh. Lúc này, Càn Long mỗi ngày đều ghé qua cung của Thái hậu, hầu bà cơm tối mỗi ngày. Bệnh tình không mấy nghiêm trọng nhưng mấy tuần sau, tình hình bất ngờ chuyển biến xấu đi và Sùng Khánh Hoàng thái hậu qua đời.
Tới tháng 3/1777, Càn Long Đế đích thân cử hành đại lễ dâng thụy tại Thái Hòa môn, kính cẩn sách tôn thụy hiệu cho Hoàng thái hậu là "Hiếu Thánh Từ Tuyên Khang Huệ Đôn Hòa Kính Thiên Quang Thánh Hiến Hoàng hậu". Bên cạnh đó, Càn Long còn xây riêng cho bà một lăng mộ, cách Thái lăng của Ung Chính không xa. Không chỉ vậy, Càn Long Đế vẫn muốn vì Thái hậu mà làm nên một bảo tháp bằng vàng, dùng để đựng những cọng tóc rụng trên lược chải của bà mỗi ngày. Vào mỗi ngày đại lễ tang giá cử hành, Càn Long Đế lúc đó tuy đã gần 70 tuổi, nhưng ông vẫn rất mực cung kính, đều đích thân đến tế tang, tế rượu, tế điện. Các quan viên đều sợ ảnh hưởng thân thể Hoàng đế, nên kiến nghị cử người đi thay, nhưng Càn Long Đế vẫn một mực từ chối.