Theo báo cáo chung của Bộ Giáo dục và Cơ quan phòng chống dịch bệnh Hàn Quốc mới công bố, tỷ lệ học sinh tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông trên toàn quốc rơi vào tình trạng thừa cân hoặc béo phì đã giảm nhẹ vào năm 2023 so với năm ngoái, nhưng tỷ lệ học sinh được xếp vào nhóm uống nhiều rượu bia tiếp tục tăng.
Khoảng 29,6% học sinh tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông trên toàn quốc thuộc nhóm thừa cân hoặc béo phì. Con số này đánh dấu sự giảm nhẹ 0,9% so với năm trước và giảm 1,2% so với năm 2021.
Hàn Quốc định nghĩa những người có chỉ số khối cơ thể (BMI) từ 23 đến 24,9 là thừa cân và BMI 25 trở lên là béo phì. Các định nghĩa này khác với tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), trong đó BMI từ 25 đến 29,9 được định nghĩa là thừa cân và BMI từ 30 trở lên được định nghĩa là béo phì. Các quan chức đã tiến hành nghiên cứu dựa trên khảo sát với 87,182 học sinh tại 1,009 trường học trên cả nước.
Cuộc khảo sát cho thấy học sinh sống ở khu vực nông thôn có tỷ lệ thừa cân hoặc béo phì cao hơn, ở mức 34,4% so với 28,7% đối với những học sinh sống ở khu vực thành thị.
Báo cáo cho thấy cân nặng trung bình của học sinh năm cuối cấp ba đã tăng lên, cân nặng của nam sinh tăng 0,9 kg lên 72,7 kg trong khi của nữ sinh tăng 0,7 kg lên 58,2 kg. Nam sinh năm cuối cấp hai nặng hơn năm trước nhưng nữ sinh năm cuối cấp hai lại nhẹ hơn, nam sinh đạt 64,6 kg và nữ sinh đạt 55,1 kg.
Tuy nhiên, cân nặng của cả nam và nữ học sinh lớp 6 đều giảm, với cân nặng của nam giảm 1 kg xuống còn 50,6 kg và nữ giảm 0,2 kg xuống còn 47 kg.
Chính phủ cũng khảo sát tỷ lệ hút thuốc và uống rượu của học sinh cấp hai và cấp ba; tỷ lệ hút thuốc đề cập đến tỷ lệ phần trăm những người đã hút thuốc ít nhất một lần trong 30 ngày qua và tỷ lệ uống rượu đề cập đến học sinh đã uống ít nhất một lần rượu trong cùng thời kỳ. Tỷ lệ hút thuốc chung là 4,2%, giảm 0,3% so với năm trước.
Theo giới tính, tỷ lệ hút thuốc là 5,6% đối với nam giới, giảm 0,6 điểm phần trăm so với năm 2022 và 2,7% đối với nữ giới, tương đương với năm 2022.
Tỷ lệ uống rượu ở cả nam và nữ đều giảm so với năm trước, từ 15% xuống 13% ở nam và từ 10,9% xuống 9% ở nữ.
Nhưng mặc dù báo cáo cho thấy tổng thể có ít học sinh uống rượu hơn, nhưng những học sinh uống rượu lại uống rất nhiều. Trong số những học sinh được phân loại là người uống rượu, tỷ lệ những người "uống rượu nguy hiểm" (nghiên cứu định nghĩa là nam uống từ năm ly soju trở lên và nữ uống từ ba ly soju trở lên ít nhất một lần trong 30 ngày qua) là 41,3% cho nam sinh và 50,1% cho nữ sinh.