Đánh giá cao hơn 20 nhóm câu hỏi, ý kiến phản ánh với tinh thần thẳng thắn, tâm huyết và trách nhiệm cao của cán bộ hội nông dân, các hội viên nông dân xuất sắc, các hợp tác xã tiêu biểu, các chuyên gia, nhà khoa học và các doanh nghiệp... Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Đỗ Đức Duy cho biết, Diễn đàn đã thảo luận liên quan tới các giải pháp, chính sách khơi thông nguồn lực đất đai cho phát triển bền vững; các văn bản hướng dẫn thi hành có liên quan mật thiết đến nông nghiệp, nông thôn, trong đó có thời hạn cho thuê đất; gia hạn thời gian sử dụng đất, mở rộng đối tượng, hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp; phương thức thực hiện tập trung, tích tụ đất nông nghiệp; giao đất, cho thuê đất thông qua hình thức đấu giá quyền sử dụng đất, giúp tạo ra sự minh bạch trong tiếp cận đất đai theo cơ chế thị trường; chính sách hỗ trợ bằng hình thức đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm việc làm cho người có đất thu hồi là đất nông nghiệp, đất ở kết hợp kinh doanh dịch vụ.
Tiếp cận đất đai, thuê đất, chính sách miễn, giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất đối với tổ chức kinh tế là người sử dụng đất (gồm doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã và tổ chức khác thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh); chính sách, biện pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đảm bảo cho người sử dụng đất nông nghiệp yên tâm đầu tư sản xuất, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật để nâng cao hiệu quả sử dụng đất, phát huy nguồn lực đất đai.
Cơ chế, chính sách giao khu vực biển, xác định ranh giới, diện tích khu vực biển cho sản xuất ngư nghiệp.
Đặc biệt, các quy định về chính sách đất đai đối với đồng bào dân tộc thiểu số; giải quyết tình trạng thiếu đất ở, nhà ở, đất sản xuất; các quy định về quỹ đất nông lâm trường chuyển giao về địa phương quản lý, bao gồm việc công nhận quyền sử dụng đất cho người đang sử dụng vào mục đích nông nghiệp; thực hiện giao đất, cho thuê đất đối với các đối tượng được hưởng chính sách ưu tiên (như đồng bào dân tộc thiểu số, người có công với cách mạng); giao đất cho thuê đất đối với người chưa có đất hoặc thiếu đất sản xuất…
Về các cơ chế, chính sách, giải pháp về bảo vệ môi trường nông nghiệp, nông thôn để thực hiện cam kết của Việt Nam, hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng '0", Diễn đàn thảo luận các nội dung tiếp cận toàn dân để thực hiện mục tiêu đạt phát thải ròng bằng "0" vào năm 2050.
Trong đó, nông nghiệp, nông thôn và nông dân đóng vai trò then chốt trong triển khai các giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu, thông qua chuyển đổi sinh kế, giống cây trồng, vật nuôi, chuyển đổi nông nghiệp xanh, nông nghiệp hữu cơ; việc đo lường, định lượng mức giảm phát thải khí nhà kính và tạo tín chỉ các-bon trong Đề án một triệu héc-ta lúa gạo chất lượng cao, phát thải thấp; việc giao dịch tín chỉ các-bon rừng, chứng chỉ FSC; việc hỗ trợ chương trình tập huấn, tăng cường năng lực cho các cấp hội nông dân về ứng phó với biến đổi khí hậu.
Giải quyết tình trạng ô nhiễm môi trường do hoạt động chăn nuôi, trong đó tập trung quản lý thông qua quy hoạch vùng chăn nuôi, gắn với quy hoạch bảo vệ môi trường; phát triển các mô hình chăn nuôi - trồng trọt - nuôi trồng thủy sản phát thải thấp; tăng cường tiếp cận, phổ biến, áp dụng các mô hình, giải pháp xử lý chất thải rắn sinh hoạt nông thôn, chất thải chăn nuôi (như: phân loại chất thải rắn tại nguồn, ủ phân hữu cơ, thu hồi năng lượng, nguyên liệu từ chất thải).
Hạn chế và kiểm soát tình trạng ô nhiễm môi trường khu vực nông thôn, nhất là kiểm soát ô nhiễm từ hoạt động sản xuất của các làng nghề, cơ sở sản xuất nhỏ lẻ; kiểm soát nguồn nước gây ô nhiễm môi trường do hoạt động nông nghiệp xả thải trực tiếp ra các sông; các cơ chế, chính sách thúc đẩy tổ chức, cá nhân tham gia bảo vệ môi trường; giải quyết các vấn đề gây bức xúc của người dân nông thôn do ô nhiễm môi trường; tình trạng khai thác cát làm sạt lở bờ sông…
Các vấn đề cấp bách đặt ra trong dự báo, cảnh báo sớm thiên tai, mưa lũ, sạt lở đất; khoanh vùng các khu vực có nguy cơ sạt ở, lũ quét tại khu vực Trung du, miền núi phục vụ phòng, chống thiên tai, đảm bảo an toàn tính mạng và tài sản của nhân dân, cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện ổn định, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh.
"Về nội dung này, Bộ Tài nguyên và Môi trường đang xây dựng dự án tăng cường năng lực cảnh báo, dự báo về thiên tai", Bộ trưởng Đỗ Đức Duy nói.
"Đây là các vấn đề thực tiễn thuộc phạm vi quản lý nhà nước của các ngành Tài nguyên và Môi trường, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; nhiều vấn đề liên quan, tác động trực tiếp đến quyền, lợi ích, đời sống, sản xuất của người nông dân, cũng như khu vực nông nghiệp, nông thôn", Bộ trưởng khẳng định.
Để giải quyết các kiến nghị của nông dân, Bộ trưởng Đỗ Đức Duy đã nêu 6 nhóm nhiệm vụ trọng tâm để các đơn vị của Bộ thực hiện:
Một là, chủ động phối hợp chặt chẽ với các cấp hội nông dân, hợp tác xã tích cực quán triệt, tuyên truyền, giáo dục, tạo sự thống nhất, đồng thuận cao trong nhận thức và hành động của toàn xã hội nói chung và hội viên nông dân cả nước nói riêng về quản lý, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường, chủ động phòng chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu theo xu thế chuyển đổi xanh, phát triển kinh tế các-bon thấp, kinh tế tuần hoàn, phục hồi hệ sinh thái; hướng đến mục tiêu phát triển bền vững và trung hòa các-bon; thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo; phát huy vai trò chủ thể của nông dân, người dân nông thôn, doanh nghiệp, hợp tác xã.
Xác định thích ứng với biến đổi khí hậu và thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng "0" vừa là thách thức, nhưng đồng thời cũng là cơ hội để phát triển bền vững kinh tế nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống người dân nông thôn.
Đổi mới công tác tuyên truyền, vận động, tập hợp, đoàn kết nông dân; nâng cao hiệu quả các phong trào thi đua, cuộc vận động trong thực hiện các chính sách, pháp luật về tài nguyên và môi trường; lồng ghép với tuyên truyền, vận động thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Đặc biệt, gắn công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách tài nguyên và môi trường với giải quyết, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc mang lại những lợi ích thiết thực cho bà con nông dân; tạo điều kiện để bà con tiếp cận những chính sách mới, khơi thông các nguồn lực, góp phần phát triển nông nghiệp, nông thôn hiệu quả, bền vững.
Chú trọng giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao nhận thức, khơi dậy tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí, khát vọng vươn lên, nỗ lực học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; chung tay, góp sức xây dựng nông nghiệp sinh tái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh, góp phần tích cực phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế.
Tăng cường truyền thông về chủ trương, chính sách, pháp luật, các mô hình hay, cách làm hiệu quả, gương điển hình, tiên tiến trong nông nghiệp, nông dân, nông thôn; nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động thông tin, truyền thông của các cấp hội nông dân; lồng ghép việc thực hiện các chính sách, pháp luật về tài nguyên và môi trường trong các mô hình, hoạt động phong trào, công tác thông tin, truyền thông của các cấp hội.
Hai là, tiếp tục rà soát, hoàn thiện và tổ chức thực thi có hiệu quả hệ thống chính sách, pháp luật về quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu gắn với nông nghiệp, nông dân và nông thôn.
Trong đó tập trung triển khai đầy đủ, toàn diện Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, Luật Tài nguyên nước năm 2023, Luật Đất đai năm 2024, Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo và các văn bản hướng dân thi hành.
Đối với việc triển khai Luật Đất đai năm 2024, có rất nhiều điểm mới tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người nông dân, cũng như chính sách đất đai đối với đồng bào dân tộc thiểu số cần được phổ biến, hướng dẫn sâu rộng để người nông dân nắm bắt, vận dụng các chính mới này để phát triển kinh tế gia đình, kinh tế nông thôn và tham gia xây dựng nông thôn mới bền vững.
Ba là, đẩy mạnh chuyển đổi xanh, kinh tế các-bon thấp, kinh tế tuần hoàn; tập trung giải quyết các vấn đề ô nhiễm môi trường khu vực nông thôn, các nguy cơ suy giảm, cạn kiệt tài nguyên và đa dạng sinh học. Đặc biệt, thúc đẩy phát triển, ứng dụng các mô hình kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp; đề xuất chính sách thu hút các dự án đầu tư sử dụng tiết kiệm, hiệu quả năng lượng và tài nguyên trong nông nghiệp. Xây dựng và thực hiện kế hoạch giảm phát thải khí nhà kính cho các lĩnh vực phát triển nông nghiệp; thiết lập và vận hành hiệu quả thị trường các-bon nói chung, và trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp nói riêng.
Bốn là, thường xuyên cập nhật, hướng dẫn người dân, cộng đồng các kế hoạch, phương án phòng ngừa thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu ở những khu vực thường xuyên bị ảnh hưởng bởi thiên tai, lũ quét, sạt lở đất, địa bàn trung du, miền núi. Thực hiện các giải pháp tổng thể về phòng, chống xâm nhập mặn, sạt lở bờ sông, bờ biển, sụt lún vùng đồng bằng sông Cửu Long; chủ động quy hoạch, di dời, tái định cư cho người dân ở các khu vực có nguy cơ rủi ro thiên tai cao.
Năm là, tối ưu hóa việc đưa các diện tích đất chưa sử dụng vào sử dụng trong thực tế; kiểm soát chặt hoạt động khai thác khoáng sản, đặc biệt là khai thác cát sỏi lòng sông, ven biển.
Khai thác, sử dụng hiệu quả nguồn nước trong nông nghiệp, góp phần bảo đảm an ninh nguồn nước; tiếp tục phân cấp quản lý, bảo vệ và phát triển rừng cho cộng đồng dân cư.
Sáu là, tập trung nguồn lực giải quyết hiệu quả các vấn đề môi trường nông thôn, đặc biệt là xử lý nước thải làng nghề; cải tạo, phục hồi môi trường các lưu vực sông, hồ chứa, công trình thủy lợi bị ô nhiễm; thực hiện hiệu quả việc thu gom, xử lý chất thải rắn sinh hoạt, bao bì, thuốc bảo vệ thực vật, giảm thiểu chất thải nhựa; tái chế, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ vi sinh, hữu cơ trong canh tác và phát triển kinh tế nông nghiệp; bảo đảm cung cấp nước sạch cho người dân nông thôn, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo; bảo vệ các hệ sinh thái tự nhiên, đặc biệt là các hệ sinh thái rừng, đất ngập nước, rạn san hô, thảm cỏ biển.