Trồng rừng, đầu tư vào rừng nguyên liệu đang là cơ hội làm giàu của nhiều nông dân hiện nay, khi “đầu ra” rất rộng mở, nhu cầu cao. Tuy nhiên, hầu như hiện nay, các vùng trồng rừng nguyên liệu chỉ tập trung vào trồng hai loài keo lai và keo tai tượng, tuổi cây ngắn (5-7 năm là thu hoạch).
Theo thống kê, diện tích rừng gỗ lớn của nước ta hiện chỉ đạt 20%, 80% là rừng gỗ nhỏ. Nếu bán gỗ nhỏ, gỗ dăm hoặc nguyên liệu giấy giá trị chỉ đạt 700.000 – 800.000 đồng/tấn, nhưng nếu gỗ (xẻ) chế biến đường kính càng cao thì giá trị cao gấp 3 lần so với rừng gỗ nhỏ.
Chỉ tính riêng đối với loại cây trồng phổ biến là keo, đến năm thứ 6 vẫn còn là rừng trồng gỗ nhỏ nên chỉ có thể bán làm dăm gỗ, gỗ phục vụ khai mỏ, giá trị đạt khoảng 80 triệu đồng/ha, thu nhập bình quân từ 12 - 15 triệu đồng/ha/năm.
Mô hình trồng rừng gỗ lớn của Công ty TNHH Lâm nghiệp Yên Thế (Bắc Giang).
Thế nhưng, khi trở thành rừng trồng gỗ lớn, tức là cây sau 10 - 14 năm trồng mới tiến hành khai thác, sản lượng đạt từ 200 - 240m3/ha, đường kính cây trên 18cm, lúc đó, rừng sẽ được bán theo giá gỗ xẻ, gỗ chế biến với giá trị từ 1,8 - 2 triệu đồng/m3, tức là khoảng 250 - 300 triệu đồng/ha, lợi nhuận bình quân từ 22 - 25 triệu đồng/ha/năm, cao gấp hơn 1,5 lần giá trị rừng gỗ nhỏ.
Theo tính toán, so với trồng rừng gỗ nhỏ, lợi nhuận từ rừng trồng gỗ lớn cao hơn nhiều lần, tuỳ theo tuổi khai thác và đường kính cây. Ước tính sau chu kỳ 10 - 12 năm, tổng doanh thu bình quân đạt 215 - 250 triệu đồng/ha, đỉnh điểm có thể đạt 300 - 350 triệu đồng/ha.
Điều đáng nói là, các nhà máy chế biến gỗ xuất khẩu đang có nhu cầu cao về nguyên liệu gỗ loại lớn để tránh phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu.
Trước thực tế này, ngày 30/7, Bộ NNPTNT đã ban hành quyết định hướng dẫn kỹ thuật trồng rừng thâm canh gỗ lớn và chuyển hóa rừng trồng gỗ nhỏ sang rừng trồng gỗ lớn đối với loài cây keo lai và keo tai tượng, nhằm nâng cao năng suất và hiệu quả kinh tế rừng trồng, góp phần phát triển nguồn nguyên liệu phục vụ chế biến và xuất khẩu.
Kỹ thuật này áp dụng đối với các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng dân cư có hoạt động liên quan đến các chương trình, dự án trồng rừng thâm canh gỗ lớn và chuyển hóa rừng trồng gỗ nhỏ sang rừng trồng gỗ lớn đối với loài cây keo lai và keo tai tượng có sử dụng nguồn vốn từ ngân sách nhà nước. Đây cũng là một trong những cơ sở để xây dựng dự toán trồng rừng.
Cán bộ kiểm lâm Bắc Giang kiểm tra sự phát triển của rừng gỗ lớn.
Theo đó, đối với rừng trồng keo lai, để đảm bảo là rừng gỗ lớn, mật độ trồng khoảng 1333 cây/ha (cự ly 3 x 2,5 m). Thời vụ trồng: miền Bắc trồng vào vụ xuân hè hoặc hè thu; miền Nam và miền Trung trồng vào đầu mùa mưa. b) Xử lý thực bì
Rừng trồng để lấy gỗ lớn cần được tỉa thưa từ 01 đến 02 lần khi rừng trồng có những biểu hiện cạnh tranh không gian dinh dưỡng mạnh, nhiều cây có tán giao nhau (rừng đã khép tán). Rừng trồng thâm canh keo lai cung cấp gỗ lớn có chu kỳ kinh doanh từ 10 -15 năm.
Đối với rừng trồng keo tai tượng, để đạt tiêu chuẩn là rừng gỗ lớn, mật độ trồng đạt 1333 cây /ha (cự ly 3,0 x 2,5 m) hoặc mật độ 1600 cây /ha (cự ly 2,5 x 2,5 m), tùy theo điều kiện lập địa và điều kiện thâm canh rừng. Thời vụ trồng: miền Bắc trồng vào vụ xuân hè hoặc hè thu; miền Nam và miền Trung trồng vào đầu mùa mưa
Rừng trồng thâm canh keo tai tượng cung cấp gỗ lớn có chu kỳ kinh doanh từ 12 - 15 năm.
Theo báo cáo của Tổng cục Lâm nghiệp, trong tháng 7/2019, giá trị xuất khẩu lâm sản ước đạt hơn 890 triệu USD, đưa kim ngạch xuất khẩu gỗ và lâm sản trong cả 7 tháng năm 2019 lên hơn 6 tỷ USD. Trong đó, riêng xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ đạt khoảng 5,657 tỷ USD; xuất siêu lâm sản đạt 4,574 tỷ USD.