Ximăng, nhiệt điện thuộc nhóm phải chi trả
Báo cáo của Tổng cục Lâm nghiệp (Bộ NNPTNT) cho thấy, kết quả kiểm kê khí nhà kính quốc gia đã chỉ ra, nhóm các nhà máy nhiệt điện và ximăng là nguồn phát thải khí nhà kính lớn nhất. Trong đó, trên 99% phát thải của các nhà máy này là khí CO2. Tuy nhiên, hiện nay, Việt Nam chưa có bất kỳ cơ chế tài chính nào với khí CO2.
Nhà máy Nhiệt điện Đông Triều dự kiến phải chi trả 10 tỷ đồng cho dịch vụ hấp thụ và lưu giữ carbon của rừng. Ảnh: T.L
"Chi trả dịch vụ hấp thụ và lưu giữ carbon của rừng là cơ hội để có nguồn lực thực hiện mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính theo cam kết”. Ông Hà Công Tuấn - Thứ trưởng Thường trực Bộ NNPTNT |
Trong khi đó, việc định giá khí thải CO2 là cơ chế để các doanh nghiệp trả một khoản tiền tương ứng với lượng CO2 họ thải ra môi trường trong quá trình hoạt động kinh doanh, đã được nhiều nước thực hiện.
Tính đến năm 2018, đã có 52 sáng kiến định giá khí thải CO2 được triển khai hoặc dự kiến được thực hiện ở 46 quốc gia. Các sáng kiến này được dự kiến sẽ bù đắp 11 tỷ tấn CO2, chiếm 19,5% lượng khí thải toàn cầu, với tổng giá trị 79,62 tỷ USD.
Việt Nam cũng đã tham gia ký thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu (năm 2015), cam kết đến năm 2030 sẽ giảm 8% lượng phát thải khí nhà kính. “Chi trả dịch vụ hấp thụ và lưu giữ carbon của rừng là cơ hội để có nguồn lực thực hiện mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính theo cam kết” - Thứ trưởng Thường trực Bộ NNPTNT Hà Công Tuấn phát biểu tại hội thảo về thí điểm chi trả dịch vụ môi trường rừng đối với dịch vụ hấp thụ và lưu giữ carbon của rừng, do Bộ NNPTNT tổ chức ngày 7/8.
Theo dự thảo quyết định sẽ trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, 4 địa phương được lựa chọn thí điểm là Quảng Ninh, Thanh Hóa, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam với 20 đơn vị là các cơ sở sản xuất có nguồn khí phát thải lớn gồm: 9 tổ chức hoạt động sản xuất, kinh doanh nhiệt điện than (phát thải từ 1,5 - 7,3 triệu tấn CO2/cơ sở/năm); 11 tổ chức hoạt động sản xuất, kinh doanh ximăng (phát thải từ 0,7 - 3,1 triệu tấn CO2/cơ sở/năm).
Theo dự thảo này, đối với tổ chức sản xuất, kinh doanh nhiệt điện than, mức thu sẽ là 4 đồng/kWh (tương đương 2USD/tấn CO2); đối với tổ chức sản xuất, kinh doanh ximăng mức thu là 2.100 đồng/tấn clanker (tương đương 1,35USD/tấn CO2). Dựa trên nguyên tắc về loại rừng có tiềm năng lưu giữ và hấp thụ carbon, dự thảo xác định các loại rừng được chi trả gồm: Rừng tự nhiên, rừng đặc dụng, rừng phòng hộ; rừng sản xuất tham gia vào hoạt động này phải là rừng được cấp chứng chỉ. Thời gian thực hiện thí điểm từ ngày 1/1/2020 đến 31/12/2020.
Theo ông Nguyễn Văn Vũ - Vụ trưởng Vụ Kế hoạch tài chính (Tổng cục Lâm nghiệp), mức chi trả này sẽ không tác động nhiều đến tính cạnh tranh, hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tham gia thí điểm, cũng như chi tiêu của các hộ gia đình.
“Mức tiền chi trả này sẽ làm tăng giá thành sản xuất điện, cũng như giá thành sản xuất ximăng của các nhà máy lên khoảng 0,29% và mức tăng này vẫn nằm trong khoảng tăng giá thành thực tế của lĩnh vực sản xuất ximăng là 0,3 - 1%/năm. Dự kiến, 4 tỉnh thí điểm sẽ thu được khoảng 172 tỷ đồng, trong đó nhiệt điện than là 112 tỷ đồng, ximăng là 44 tỷ đồng” - ông Vũ nói.
Doanh nghiệp cần thêm lộ trình
Đến nay, toàn quốc đã có 42 Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng từ T.Ư đến địa phương, huy động ủy thác nguồn thu từ dịch vụ môi trường rừng giai đoạn 2011-2019 đạt hơn 12.510 tỷ đồng, bình quân trên 1.200 tỷ đồng/năm. Tiền dịch vụ môi trường rừng đã góp phần quản lý bảo vệ 5,8 triệu ha rừng, chiếm 42% tổng diện tích rừng toàn quốc.
Theo ông Nguyễn Quốc Trị - Tổng Cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp, bên cạnh nguồn thu từ thủy điện, du lịch, sử dụng nước, dịch vụ hấp thụ các lưu giữ carbon sẽ giúp nguồn thu dịch vụ môi trường rừng tăng lên đáng kể, từ đó giúp nâng cao thu nhập của người trồng rừng, đồng thời tăng hiệu quả công tác bảo vệ rừng và thích ứng với biến đổi khí hậu.
“Với 172 tỷ đồng thu được, 4 tỉnh triển khai thí điểm có thể chi trả đến các hộ gia đình trồng và bảo vệ rừng; phục vụ công tác bảo vệ rừng, giảm áp lực ngân sách” - ông Trị nói.
Là một trong những doanh nghiệp thuộc đối tượng phải chi trả dịch vụ hấp thụ và lưu giữ carbon của rừng, Công ty Nhiệt điện Đông Triều (Quảng Ninh) dự kiến sẽ phải chi 10 tỷ đồng cho hoạt động này.
Ông Nguyễn Đức Sơn - Phó Giám đốc Công ty khẳng định, doanh nghiệp sẵn sàng tham gia để góp phần bảo vệ môi trường, ủng hộ việc thí điểm này, bởi nhiệt điện than có lượng phát thải khí nhà kính lớn. Tuy nhiên, trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt, phần chi phí này phải được tính vào giá điện. Bên cạnh đó, cần có lộ trình để doanh nghiệp thực hiện”.
Đồng quan điểm, ông Lê Trí Thanh - Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam, việc thực hiện chủ trương này là đúng, nhưng cần có lộ trình, kế hoạch phù hợp để không ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Được biết, tổng số tiền dịch vụ môi tường rừng tỉnh Quảng Nam thu được năm 2017 là 100 tỷ đồng, số tiền này trong 3 quý của năm 2018 là 90 tỷ đồng; đã có 27.000 hộ được hưởng dịch vụ môi trường rừng. Đối với dịch vụ hấp thụ, lưu giữ carbon, trên địa bàn tỉnh có 4 cơ sở có lượng phát thải khí CO2 lớn.
Đồng tình với chủ trương này, nhưng đại diện Tập đoàn Điện lực Việt Nam cho rằng, việc thu phí chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến giá thành sản xuất.
Thứ trưởng Thường trực Bộ NNPTNT Hà Công Tuấn: Cần sớm thí điểm chi trả dịch vụ môi trường rừng Việt Nam đang thực hiện giảm phát thải khí nhà kính, phát triển nền kinh tế xanh với quyết tâm cao, từng bước hình thành thị trường tín chỉ CO2, bởi đây là một xu thế tất yếu, là công cụ quan trọng mà toàn cầu đang tập trung thực hiện. Khánh Nguyên (ghi) |