Hạ viện Mỹ ngày 24/9 đã tuyên bố tiến hành điều tra luận tội Tổng thống Trump sau khi ông bị cáo buộc gây sức ép với một nhà lãnh đạo nước ngoài để tiến hành điều tra con trai đối thủ chính trị Joe Biden.
Khi thông báo về việc tiến hành điều tra luận tội Tổng thống Trump, Chủ tịch Hạ viện Nancy Pelosi đã tuyên bố rằng “không ai ở trên pháp luật”.
Hạ viện Mỹ ngày 24/9 đã tuyên bố tiến hành điều tra luận tội Tổng thống Trump. Ảnh: GQ
Hiện tại có một làn sóng ủng hộ trong số các nghị sỹ Dân chủ về việc luận tội Tổng thống Trump sau khi ông công khai thừa nhận đã đề nghị Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy điều tra con trai cựu Phó Tổng thống Joe Biden, đồng thời là ứng cử viên hàng đầu của đảng Dân chủ cho cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ 2020.
Tổng thống Trump sau đó tuyên bố trên Twitter rằng, cuộc điện đàm ngày 25/6 của ông là “rất thân thiện và hoàn toàn phù hợp” và ông đã không gây bất cứ áp lực nào đối với Tổng thống Zelenskiy. Ông cũng gọi cuộc điều tra của Hạ viện là “cuộc săn phù thủy rác rưởi” trong một tuyên bố trên Twitter.
Vậy quy trình luận tội một tổng thống Mỹ diễn ra như thế nào?
Lý do luận tội?
Các nhà lập quốc ở Mỹ khi thành lập văn phòng Tổng thống đã lo ngại rằng quyền lực có thể bị lạm dụng. Vì thế họ đã thêm vào Hiến pháp Mỹ một quy trình theo đó có thể bãi nhiệm một Tổng thống đương chức.
Theo Hiến pháp, Tổng thống có thể bị bãi nhiệm vì tội “phản quốc, nhận hối lộ và các tội nghiêm trọng khác”.
Những tội danh chính xác theo điều khoản này là những gì vẫn còn gây tranh cãi. Nhìn lại lịch sử, nó có thể bao gồm tội tham nhũng và việc lạm dụng niềm tin của công chúng.
Một Tổng thống không nhất thiết phải phạm tội hình sự cụ thể mới bị đưa ra luận tội.
Rất nhiều nhà bình luận nói rằng, việc gây sức ép với một nhà lãnh đạo nước ngoài để can thiệp vào cuộc bầu cử Mỹ là một kiểu hành động mà các nhà lập quốc có thể sẽ xem xét tiến hành luận tội.
Luận tội diễn ra như thế nào?
Có một sự hiểu lầm về “luận tội” là nó đề cập tới việc bãi nhiệm Tổng thống đương chức. Thực tế, luận tội chỉ đề cập tới việc Hạ viện đưa ra các cáo buộc – tương tự như một bản cáo trạng như trong trường hợp phạm tội.
Hiện tại có những tranh cãi về việc một cuộc điều tra luận tội sẽ bắt đầu như thế nào. Doug Collins, người đứng đầu phe Cộng hòa tại Ủy ban Tư pháp Hạ viện, nói rằng một cuộc điều tra luận tội không thể bắt đầu cho đến khi Hạ viện bỏ phiếu cho phép điều đó xảy ra. Tuy nhiên, các nghị sỹ đảng Dân chủ nói rằng, một cuộc bỏ phiếu như vậy là không cần thiết.
Thông thường, Ủy ban Tư pháp Hạ viện sẽ thực hiện các thủ tục cần thiết liên quan tới cuộc điều tra luận tội Tổng thống.
Nếu đa số Hạ viện 435 thành viên thông qua các cáo buộc, còn được gọi là “các điều khoản của luận tội”, quy trình tiếp theo sẽ được chuyển lên Thượng viện. Sau đó, Thượng viện sẽ tổ chức phiên xét xử để quyết định việc Tổng thống có tội hay không.
Trong một phiên xét xử như vậy, các thành viên Hạ viện sẽ đóng vai trò như công tố viên, còn các Thượng nghị sỹ đóng vai trò như bồi thẩm đoàn, và Tòa án tối cao Mỹ sẽ làm Chủ tọa. Để kết án và bãi nhiệm Tổng thống, cần phải có 2/3 trong số 100 thành viên của Thượng viện thông qua.
Thất bại vì đảng phái trong Quốc hội
Hiện nay, Hạ viện có 235 nghị sỹ Dân chủ, 199 nghị sỹ Cộng hòa và 1 nghị sỹ độc lập. Như vậy, phe Dân chủ có thể luận tội Tổng thống Trump mà không cần sự ủng hộ của các thành viên Cộng hòa.
Năm 1998, khi đảng Cộng hòa chiếm đa số ở Hạ viện, viện này từng bỏ phiếu luận tội Tổng thống Bill Clinton.
Thông tin luận tội Tổng thống Bill Clinton lên trang nhất tờ Washington Post ngày 20/12/1998. Ảnh: Washington Post
Hiện tại Thượng viện có 53 thành viên Cộng hòa và 45 thành viên Dân chủ cùng 2 thành viên độc lập (nhưng thường bỏ phiếu theo phe Dân chủ). Việc kết tội và bãi nhiệm Tổng thống cần 67 phiếu. Vì thế, để bãi nhiệm Tổng thống thông qua luận tội, thì ít nhất 20 nghị sỹ Cộng hòa và toàn bộ các nghị sỹ Dân chủ và độc lập phải bỏ phiếu chống lại Tổng thống.
Với thế đa số tại Thượng viện hiện nay, đảng Cộng hòa có thể bỏ phiếu để bác bỏ ngay lập tức các cáo buộc nhằm vào Trump mà không cần xem xét bằng chứng.
Chưa có Tổng thống nào của Mỹ bị bãi nhiệm từ một cuộc luận tội. Tổng thống Richard Nixon đã từ chức năm 1974 trước khi ông bị luận tội. Còn Tổng thống Andrew Johnson năm 1868 và Bill Clinton năm 1998 đều bị luận tội ở Hạ viện, nhưng lại không bị kết tội ở Thượng Viện.
Quá trình luận tội có thể kéo dài tới hàng tháng.
Đối với Andrew Johnson, quá trình này kéo dài 94 ngày, từ khi Hạ viện thông qua việc luận tội ngày 22/2/1868 cho tới khi Thượng viện tuyên bố vô tội ngày 26/5 cùng năm.
Đối với Tổng thống Richard Nixon quá trình này kéo dài 184 ngày. Hạ viện thông qua việc luận tội ngày 6/2/1974 nhưng sau đó Tổng thống Nixon từ chức.
Còn trường hợp của Tổng thống Bill Clinton là 127 ngày. Hạ viện thông qua yêu cầu luận tội ngày 8/10/1998 và Thượng viện “tuyên trắng án: ngày 12/2/1999.