Dân Việt

Về làng chăm "lão Trư" hơn chăm quý tử, không dám đánh mắng

12/04/2013 15:46 GMT+7
(Dân Việt) - Chú lợn được cả làng cung kính gọi là "Lợn Ông Hợp" phải là lợn giống tốt, có sức lớn, lông đen tuyền, nuôi trong điều kiện sạch sẽ, ăn ngon. Già trẻ đều kính cẩn gọi “ông lợn” chứ không dám đánh đuổi.

Lấy lợn làm vật lễ là điều không lạ trong rất nhiều lễ hội ở nước ta. Thế nhưng ở thôn Ngọc Khám, xã Gia Đông, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, người ta lấy lợn sống làm vật lễ. Người dân thôn Ngọc Khám phải thực hiện hàng loạt quy định liên quan, rồi phải bình chọn ra được một người để nuôi chú lợn trong 3 năm cho đến ngày hội làng. Chú lợn trong ngày lễ hội này được cả làng cung kính gọi là “Lợn Ông Hợp”.

Làng Ngọc Khám (Thuận Thành, Bắc Ninh) nằm bên bờ sông Đuống trong vùng văn hóa Dâu: “Mồng 7 hội Khám, mồng 8 hội Dâu, mồng 9 đâu đâu cũng về hội Gióng”. Lễ hội ở Ngọc Khám có nét riêng là tục nuôi “Lợn Ông Hợp” phục vụ cho việc tế đám hằng năm. Ngoài nghi thức tế thần, đây còn là một sự biểu dương nghề nông độc đáo ở vùng quê thuần nông này. Không biết tự bao giờ, chú lợn trong lễ cúng ngày hội làng đầu xuân ở thôn Ngọc Khám được người dân cung kính gọi là “Lợn Ông Hợp”. Cũng chẳng ai nhớ nổi cái tên ấy xuất phát từ đâu.

 img
Đình làng Ngọc Khám.

Bình chọn khắt khe để được nuôi lợn

Được sự giới thiệu của người dân, chúng tôi tìm đến nhà cụ Nguyễn Phú Thật (81 tuổi). Cụ Thật từng làm thủ từ của đình làng. Cụ Thật cũng là một trong những người được nuôi “Lợn Ông Hợp” nên nắm rõ những điều nghiêm ngặt liên quan đến việc nuôi lợn và tế lễ. Cụ Thật cho biết theo hệ thống thần phả sắc phong của đình thì người được thờ là Kinh Dương Vương Lạc Long Quân và mẹ Âu Cơ - 2 vị thủy tổ có công mở nước, khai sơn sáng thủy. Vì thế, vào ngày hội làng, vật cúng là lợn sống và cá chín.

Theo lời cụ Thật, cơ cấu tổ chức thời xưa và cho đến nay vẫn không thay đổi: các dòng họ trong làng Ngọc Khám được chia thành 4 giáp gọi theo phương hướng là Đông - Tây - Nam - Bắc. Mỗi giáp là một đơn vị tham gia lễ hội của làng.

Các giáp bầu người đứng ra tế đám từ 3 năm trước. Để có lợn làm vật lễ, người dân phải tuân thủ rất nhiều quy định hết sức nghiêm ngặt được truyền lại từ nhiều thế hệ cha ông. Theo đó, để được chọn làm người nuôi lợn tế lễ, gia đình phải có đủ các tiêu chuẩn như: vợ chồng song toàn, con cái đề huề (có nam, có nữ, không bị dị tật), bản thân là người có uy tín với dân làng. Bên cạnh đó, người được chọn còn phải là người cao tuổi nhất giáp.

Trong năm cuối cùng trước khi tế đám mà “có bụi” (có tang tứ thân phụ mẫu, hoặc người thân phải khăn trắng, áo dài) thì phải “nhảy ra”, tức là không được tế đám nữa, trong giáp phải bầu người khác thay. Khi được bầu vào chân tế đám sẽ được làng chia ruộng công cho để có hoa lợi dùng cho tế đám, trong đó có một việc quan trọng hàng đầu là nuôi “Lợn Ông Hợp”. Đời người chỉ được đứng ra tế đám một lần, sau đó được dân làng xưng gọi một cách kính trọng là “ông đám”.

 img
Cụ Nguyễn Văn Ưu kể về tục lệ nuôi lợn tế độc đáo.

Cụ Nguyễn Văn Ưu (cụ thượng ở làng Ngọc Khám) kể lại: “Theo tôi biết, việc chú lợn nuôi trong lễ hội được gọi là "Lợn Ông Hợp" bởi chú lợn nuôi để thờ thần thì phải gọi là "ông". Còn “hợp” nghĩa là chú lợn được sự hợp sức của toàn thể dân làng nuôi trong 3 năm. Việc chăm nuôi này nhằm tỏ sự tôn kính với chú lợn trong việc tế lễ”.

Theo cụ Thật và cụ Ưu, chú lợn được chọn là lợn giống tốt, có sức lớn, lông phải đen tuyền, nuôi trong điều kiện sạch sẽ, ăn ngon. Khi đã nhận nuôi “Lợn Ông Hợp” thì không được phép gọi là con lợn mà phải gọi là “ông lợn”. Nuôi cũng không được nhốt như nuôi lợn thường mà phải thả rông. Người lớn, trẻ nhỏ thấy cũng kính cẩn gọi là “ông lợn” chứ không dám đánh đuổi.

Những tục lạ trong lễ tế

Theo lời cụ Thật, hội làng diễn ra vào ngày mùng 7.1 âm lịch thì ngay từ mùng 5, những “ông lợn” đã được gia chủ tắm rửa sạch sẽ và cho ăn thật no. Vào ngày mùng 6, ông đám phải làm sao để “ông lợn” tự đi ra đình làng mà không phải bắt đi hay khênh đi. Sau khi đã đưa được “ông lợn” ra đình thì dùng dây cột “ông” lại để đến sáng hôm sau làm lễ.

"Suốt 3 năm chăn thả, người nuôi không được phép mắng mỏ hay đánh lợn. Nếu lợn có sà vào nhà nào ăn rau thì chủ nhà lấy đó làm mừng vì đã được “thánh” quan tâm đến. “Ông lợn” được nuôi với chế độ đặc biệt, đảm bảo tất cả các quy định, không được có sai sót nào. Nếu chẳng may “ông lợn” của giáp nào ốm, bỏ ăn, gia chủ chỉ cần đem lễ ra đình là “ông lợn” sẽ khỏi chứ không cần thuốc thang gì” - cụ Ưu kể.

“Vì làng chúng tôi có 4 giáp nên sáng ngày mùng 7, 4 vị tế đám dẫn đầu 4 đoàn rước mâm lễ bánh dày, cá nướng long trọng tiến về sân đình. "Lợn Ông Hợp" chính là đồ tế thánh tươi sống, còn mâm bánh dày, cá nướng là đồ tế chín. Trước khi tế, các vị hương lão, chức dịch đi đo chiều dài và vòng ngực, vòng mông để tính trọng lượng của 4 "ông lợn". Lợn của giáp nào to hơn thì được giải thưởng của làng. Giải thưởng chỉ là quả cau, lá trầu nhưng cả giáp đều mừng vì người ta quan niệm, cả giáp sẽ được thánh phù trợ mạnh khỏe, ăn nên làm ra, phong dồi vật thịnh năm ấy” - cụ Ưu cho biết.

 img
Cụ Nguyễn Phú Thật từng được nuôi "Lợn Ông Hợp".

Về đồ tế chín, từ ngày mùng 6, người đứng ra tế đám phải nhờ người nhà, họ hàng đến làm cỗ, trong đó có đôi bánh dày to bằng lòng mâm và hai con cá trắm to nướng chín. Khi ông đám nhận ruộng nuôi “ông lợn” cũng là nhận nuôi cá làm lễ nữa. Mỗi ông đám sẽ phải nuôi 3 con trắm đen nặng trên 3kg và 10 con cá mè.

Cách nướng cá khá kỳ công, cá treo cách lửa chừng một gang tay để hơi lửa làm cho cá khô dần. Khi cá khô hẳn thì dùng chổi lông thấm nước mắm ngon có gia vị quét đều lên thân cá rồi nướng tiếp, cứ khô lại quét một lượt nước mắm nữa. Sau nhiều lần quét mắm, cảm thấy cá đã ngấm đủ gia vị thì người ta cậy vẩy cá nhét vào một hạt thóc nếp, cứ mỗi vẩy một hạt và lại nướng tiếp, đến khi hạt thóc gặp sức nóng nổ hết là được. Lúc này vảy cá nở như cánh hoa nom rất đẹp, lại dậy mùi thơm ngon của gia vị quyện mùi cá nướng.

Ông đám có lợn được thưởng sẽ được vinh danh hơn các ông đám khác. Sau buổi lễ long trọng ngày mùng 7, đến ngày mùng 8 các “ông lợn” được đưa trở lại nhà ông đám để giết thịt. Thịt “ông lợn” được chia đều cho mọi người dân trong làng, từ đứa trẻ ẵm ngửa cho đến các cụ già. Tùy theo chức sắc và cấp bậc của người đó mà số thịt lợn được chia cũng khác nhau. Sau khi tế, ông đám sẽ được hưởng lộc của làng gồm: một chiếc bánh dày 7 tấc, một khoanh giò lụa 2 tấc, một con cá mè to… Công việc cuối cùng là lựa chọn ông đám tiếp theo cho lễ hội của 3 năm tới.

Theo Dòng Đời