Dân Việt

Những mảnh đời xa xứ

Congdong 29/12/2013 13:30 GMT+7
Trở lại châu Âu sau hơn 20 năm, tôi gặp một số bạn bè, bà con mình định cư bên ấy. Cách thức kiếm sống giờ đã khác, nhưng vẫn là cách sống của dân một nước nghèo ở những nước giàu.
Phần lớn phải tằn tiện, phải vất vả vươn lên tìm việc làm ở những mảng công việc chân tay mà người bản xứ ít làm.

Trên con đường từ Munich sang Cộng hòa Séc, anh Đỗ Kiến Thiết – người dẫn đoàn cán bộ chúng tôi đi du lịch theo tour dịp cuối tuần – đã kể nhiều chuyện về cuộc sống của bà con mình ở Séc. Người Việt ở đây hiện có khoảng 7-8 vạn, phần lớn là công nhân lao động xuất khẩu, số sinh viên không nhiều.
Anh Đỗ Kiến Thiết và tác giả bài viết.
Anh Đỗ Kiến Thiết và tác giả bài viết.

Sau khi bức tường Berlin sụp đổ, Tiệp Khắc thay đổi chính thể, lúc đó cũng giống như ở nhiều nước Đông Âu khác, hàng tiêu dùng thiếu hụt, nhiều người Việt tranh thủ thời cơ đưa hàng từ các nước châu Á sang, bán giá rẻ, rồi mở đủ các loại cửa hàng, dịch vụ. Người bản xứ bán hàng đến 6 giờ tối, còn người Việt mình bán đến 10 giờ tối, rồi tranh thủ bán cả ngày thứ 7, Chủ nhật, khi Tây đi nghỉ cuối tuần.

Nghèo thì phải chịu khó. Nghèo nên cũng có lúc, có bà con mình, nhất là lúc mới sang, giở mẹo trốn thuế. Cái số ít đó đã có lúc khiến một số người Séc phản ứng, nhất là khi các cửa hàng tạp hóa nhỏ của người Việt chiếm ưu thế cạnh tranh về giá, về dịch vụ…

Theo Chủ tịch Hội người Việt Nam tại Séc Hoàng Đình Thắng, cộng đồng người Việt đã đóng góp cho Nhà nước Cộng hòa Séc những khoản lợi ích không nhỏ, như sức lao động, các khoản thuế, lệ phí, học phí…

Riêng tiền thuế, năm 2010, các doanh nhân Việt đã nộp gần 700 triệu ko-run (tiền Séc). Sự cần cù, tiết kiệm của người Việt, sự hòa đồng với người dân bản xứ, coi đất nước định cư như quê hương thứ hai của mình cũng là một yếu tố thuyết phục, để bạn công nhận người Việt là một dân tộc thiểu số trong cộng đồng các dân tộc ở Séc.

Trên con đường vào thành phố công nghiệp Plzen, anh Thiết kể cho chúng tôi với giọng tiếc nuối về những thương hiệu nổi tiếng của Tiệp Khắc, sau thời kỳ thay đổi chính thể đã về tay người nước ngoài, như xe hơi Skoda, các nhà máy cơ khí và chế tạo máy công nghiệp CKD và khoảng 50% các tòa nhà đẹp…

Thấy khách du lịch có ý so sánh mức sống của người Đức và người Séc, anh Thiết liền cho biết, hiện nay Praha đứng thứ 9 về thu nhập trên đầu người trong khối các thủ đô Liên minh Châu Âu và đứng tốp đầu trong số các nước Đông Âu cũ. Chuyện dông dài, chẳng mấy chốc xe đã đưa đoàn đến nhà máy bia nổi tiếng ra đời từ năm 1842 ở Plzen.

Trông cái cổng bên ngoài với những bức tượng bằng đồng cổ kính, cứ ngỡ đây là một tòa lâu đài. Nhà máy có tour cho khách tham quan dây chuyền sản xuất bia và một quán bia cổ dưới tầng hầm. Anh Thiết ý nhị nhắc đoàn mời ông lái xe người Séc vào nghỉ ngơi, uống bia cùng đoàn cho thân mật.

Cái không khí cổ xưa với những vại bia tươi hàng lít và cách bài trí, phục vụ dân dã như kéo du khách ngược trở về thế kỷ XIX, nơi có những chàng hiệp sĩ ra tay cứu các quí cô khỏi sự quậy phá của những kẻ say sưa. Thấy đoàn khách phấn khởi, anh Thiết cảm thấy tự hào và vui hơn, như những vị chủ nhà muốn khoe với khách về cái hay, cái đẹp của nhà mình.

Chúng tôi tới Praha thì một góc thành phố đã chìm vào giấc ngủ. Theo lời anh Thiết, những khu phố gần trung tâm này chỉ toàn ông bà già về hưu trụ lại, nên họ ngủ sớm lắm. Xe đi qua những tòa nhà cổ có tuổi đời vài trăm năm, kiến trúc có nhiều nét tương đồng với phố cổ Matxcơva. Hàng ăn hầu hết đã đóng cửa, may còn quán cơm Sen của người Việt vẫn sáng đèn đợi khách.

Quán tên Sen, mà sao tôi lại hình dung ra những thân cò lặn lội kiếm ăn đêm trên đồng ruộng quê nhà. Dù có ở trời Âu, vẫn là “thân cò lặn lội”. Lại hiện lên ký ức những ngày tháng mùa đông lần mò đi các ký túc xá công nhân mua hàng giá cao để chuẩn bị cho thùng hàng về nước của nhiều cán bộ, sinh viên mình ở Liên Xô và Đông Âu cũ.

Praha sáng mùa hè thật đẹp với những hàng cây phong trên những con đường lát đá dẫn vào khu vực Thành cổ Praha, nay là Phủ Tổng thống. Gần đó là Vườn Thượng uyển và Nhà thờ St.Vitus có lịch sử hơn năm trăm năm. Chúng tôi đến Quảng trường Phố cổ, mà người Việt mình quen gọi là Quảng trường Con gà.

Anh Thiết tiết lộ rằng, chiếc đồng hồ thiên văn có chú gà trống bằng vàng gáy vang sau mỗi tiếng đồng hồ với 12 vị tông đồ lần lượt đi qua ô cửa nhỏ trên tháp tòa thị chính là độc nhất vô nhị. Nó là một trong ba chiếc đồng hồ thiên văn học cổ xưa nhất trên thế giới và là chiếc duy nhất vẫn còn hoạt động cho đến hiện nay.

Rời những quảng trường và lâu đài nguy nga, cổ kính, rời ngôi trường Đại học Tổng hợp Praha có lịch sử lâu đời, đoàn chúng tôi trở về Trung tâm Thương mại Sapa. Tôi có cảm giác như mình trở lại thời sinh viên ở Matxcơva. Rời những mộng mơ giữa thế giới vàng son của các ông hoàng bà chúa, sau những chuyến thăm quan, nghỉ hè ngắn ngủi, sinh viên Việt Nam lại trở về với những kỳ thi triền miên không ngủ và những buổi chiều “đi cửa hàng” săn từng mảnh vải hạ giá, từng chiếc cặp sách, bàn là.., để gửi về nhà đỡ đần cha mẹ.

Trung tâm Thương mại Sapa giống như nhiều khu chợ ở Việt Nam, ở đó có mọi thứ. Một thời kỳ dài nơi đây rất sầm uất, nhưng giờ kinh tế khó khăn, nhiều chủ gian hàng phải chuyển từ bán vải vóc, quần áo sang bán rau quả, thực phẩm. Bà con than thở, chẳng hiểu sao người Séc đột nhiên không chi tiêu nữa.

Có gì đâu, vì giá cả cứ nối đuôi nhau tăng giá, người nghèo đành hạn chế đi chợ, còn người giàu thì họ vào siêu thị mua hàng hiệu mất rồi. Chuyển sang kinh doanh thực phẩm, kiếm lãi từng xu, mà lại rất vất vả, nhất là với những bà con thuê cửa hàng, họ phải đi từ 4 giờ sáng tới 10 giờ khuya và mở cửa cả chủ nhật để tăng thêm một chút thu nhập.

Anh Thiết vốn là cán bộ ngành xây dựng ở Việt Nam. Anh sang Séc năm 1991 vì có người nhà ở đó. Nhờ “trận mưa vàng” khi Séc mới chuyển đổi chính thể, người bình thường như anh cũng đã có được căn hộ chung cư riêng để ở, nhưng anh vẫn chịu khó lặn lội làm ăn.

Sẵn sàng gửi tiền đóng góp vào Quỹ “Trái tim cho em” ở quê nhà. Anh mang thực phẩm theo người để hạn chế chi tiêu dọc đường, nhất là khi qua những nước đắt đỏ. Biết đoàn khách toàn là nhà báo, anh cố gắng chiều khách, đi đêm về hôm, tìm và cung cấp thông tin đủ loại.

Dẫn chúng tôi qua cây cầu cạn Nuselský – một trong những cây cầu lớn nhất của Séc giữa lòng Praha, anh Thiết tự hào kể rằng, tuy cầu mới khánh thành năm 1973, nhưng nó đã có trong quy hoạch thành phố trước đó 200 năm. Chính nhờ tầm nhìn đó, mà Praha thu hút mỗi năm mấy chục triệu du khách và xứng danh là di sản văn hóa thế giới.

Ở Séc rất ít người Việt làm việc trong các công ty của người bản xứ, vì số sinh viên ở lại sau tốt nghiệp không nhiều. Đa phần là những “thân cò lặn lội”. Ở Đức lại khác. Bên cạnh số bà con lao động xuất khẩu ở lại phải lăn lưng ở những khu chợ người Việt, hay buôn bán nhỏ thì người có bằng cấp đại học sang Đức sinh sống khá nhiều.

Ông Nguyễn Đức Thắng, người phiên dịch cho đoàn cán bộ VTV đi học về quản lý truyền thông ở Cộng hòa liên bang Đức là một ví dụ. Ông học Ngữ văn ở Đại học Tổng hợp Leipzig (thuộc Cộng hòa dân chủ Đức cũ) từ năm 1967. Về nước, ông Thắng công tác ở Bộ Ngoại giao, rồi chuyển về Bộ Công thương, làm việc nhiều năm ở Đức.

Vì nhiều lẽ, ông Thắng xin nghỉ hưu rồi sang Đức làm Giám đốc kinh doanh cho một doanh nghiệp Đức, với mức lương cao hơn hẳn so với lương của một giám đốc người Đức bình thường. Tất nhiên là tiền nào của ấy, ông Thắng phải “cày ngày, cày đêm”, nhất là những dịp cuối năm, phải giải quyết dứt điểm các hợp đồng trước Noel.

Tác phong công nghiệp, mức độ chịu sức ép và cả sự linh hoạt, năng động – đó là những gì ông Thắng rèn luyện và có được từ thời sinh viên. Với trình độ tiếng Đức tốt, từ năm thứ hai đại học ông đã đủ khả năng đi dịch cho các sự kiện lớn của người Việt ở Cộng hòa dân chủ Đức hồi ấy. Quả là đáng khâm phục so với cánh sinh viên ngữ văn ở Nga chúng tôi, đa phần chỉ đi làm thêm trong nhà máy, công trường theo kiểu lao động chân tay. Chính nhờ những đợt làm thêm dựa vào chuyên môn ấy, mà vốn tiếng Đức của ông Thắng ngày càng đa dạng và phong phú.

Bây giờ ở Đức, ông Thắng có công ty Dịch thuật và Tư vấn doanh nghiệp cho khách hàng Việt-Đức. Đi theo nhiều đoàn của Chính phủ, ông Thắng đã từng dịch cho Thủ tướng, Chủ tịch Quốc hội… Ông tham gia dịch cabin cho nhiều hội nghị quốc tế tại Đức và châu Âu. Dịch tiếng Đức, nhưng ông Thắng cũng giỏi tiếng Anh, vì đối với người Đức, tiếng Anh là ngôn ngữ phổ thông thứ hai sau tiếng mẹ đẻ.

Nhờ có sự rèn luyện thường xuyên, mở rộng vốn kiến thức đa ngành, và phong cách làm việc nghiêm túc, chuyên nghiệp, ông Nguyễn Đức Thắng được cả phía Đức và phía Việt Nam coi trọng. Ông được tham gia Hội đồng xét cấp chứng chỉ cho các phiên dịch viên cấp tuyên thệ của Đức. Các đối tượng này muốn hành nghề đều phải qua kiểm tra trình độ và phải tuyên thệ trước Tòa án. Mỗi năm, thường chỉ có một, hai người Việt qua được vòng kiểm tra này.

Là người đa tài, ông Thắng từng là Phó Chủ tịch Hội doanh nghiệp Việt Nam tại Đức và Tổng biên tập báo Doanh nghiệp của Hội. Dựa vào trí tuệ và chuyên môn được đào tạo để kiếm sống, ông lại dùng vốn liếng đó để nuôi dưỡng niềm đam mê của mình là văn học. Ông Thắng đã dịch một số tác phẩm văn học Việt Nam ra tiếng Đức và ngược lại, ông còn viết truyện và kịch bản phim…

Vốn hiểu biết, sự cẩn trọng và cầu thị trong công tác phiên dịch của ông khiến cả đoàn cán bộ chúng tôi kính nể. Câu chuyện của ông Thắng khiến tôi vô cùng khâm phục ông và tự hào vì sự thông minh, giỏi giang và nghị lực của nhiều người Việt mình ở nước ngoài. Không phải là “tướng”, là “soái” trong việc kiếm tiền, nhưng những người như ông Nguyễn Đức Thắng đã tự khẳng định ở xứ người bằng trí tuệ và học vấn của mình, góp phần giúp ích cho quê nhà và cho quê hương thứ hai. Ông là một trong số hàng vạn sinh viên Việt Nam được Liên Xô và các nước Đông Âu cũ giúp đào tạo theo con đường giữa hai Chính phủ.

Trong hơn nửa thế kỷ qua, đội ngũ này đã đóng góp sức mình cho công cuộc xây dựng đất nước bằng nhiều phương thức khác nhau, ở nhiều cương vị khác nhau, dù ở trong nước hay đang làm việc và sinh sống ở nước ngoài. Chuyện của họ là câu chuyện của cả mấy thế hệ vượt lên gian nan để tồn tại và khẳng định mình. Nhiều mùa thu đã trôi qua, ôn lại chuyện xưa, nói chuyện nay, để hy vọng về tương lai tươi sáng của đất nước. Hy vọng về những người Việt chúng ta, ở quê nhà cũng như nơi xa xứ, bớt đi cái “lặn lội thân cò” và có thể ngẩng cao đầu hội nhập bằng trí tuệ và sức lực của mình