Võ phái đa dạng
Thời kỳ đầu Thái cực quyền có tên gọi là “Trường quyền”, “miên quyền”, “quyền 13 thế”. Đời Càn Long nhà Thanh (Cao Tôn Hoằng Lịch làm vua từ 1736-1796) có nhà võ thuật lừng danh đất Sơn Tây là Vương Tông Nhạc dùng “Chu tử toàn thư” mở rộng “Dịch kinh” về triết lý Thái cực âm dương, mở rộng “quyền lý” rồi viết thành sách “Thái cực quyền luận” rồi tên gọi “Thái cực quyền” từ đó mới được xác nhận.
Xem thêm: >> Clip: Kì bí khí công và tuyệt kĩ "đao thương bất nhập" của các võ tăng
Về nguồn gốc bắt đầu Thái cực quyền có 5 lập luận khác nhau:
1. Do Hứa Tuyên Bình và Lý Đạo Tử truyền lại.
2. Cuối đời Minh, đầu đời Thanh do quyền sư Trương Tam Phong sáng tác ra.
3. Do Trần Bốc (thế kỷ thứ 14 ở Trần Gia câu, huyện Ôn, tỉnh Hà Nam sáng tác.
4. Do Vương Tông Nhạc ở đời Thanh Càn Long sáng tác
5. Do Trần Vương Đình, ở Trần Gia câu (cuối đời Minh, đầu đời Thanh) ở huyện Ôn, tỉnh Hà Nam sáng tác ra.
Kỳ thực, sự hình thành Thái cực quyền có nguồn gốc bối cảnh văn hoá rất sâu xa: Được hấp thụ, tổng hợp bởi quyền thuật từ đời Minh, hai là thu nạp phép Đạo dẫn (một cách tu luyện của Đạo gia, biến “tinh” thành “tuỷ” để được khoẻ mạnh trường sinh), kết hợp phép thổ nạp và thuyết “kinh lạc” của Trung y. Đặc biệt từ đời Tống, thuyết Âm dương Ngũ hành là một trong ba trào lưu triết học cơ sở của Thái cực quyền.
Xem thêm: >> Giới Võ lâm và những câu chuyện truyền kì
Trải qua thời gian, Thái cực quyền diễn biến thêm nhiều lưu phái khác nhau: Kiểu họ Trần, họ Dương, họ Vũ, họ Ngô, họ Tôn… Sau khi thành lập nước CHND Trung Hoa (1949), đã cho viết lại Thái cực quyền giản hoá gồm 48 thức, tu sửa hiệu đính thế quyền Dương thức (Thái cực quyền họ Dương), gồm 88 chiêu thức Thái cực quyền, với yêu cầu:
1. Tĩnh tâm dụng ý, lấy ý thức dẫn đạo động tác, phối hợp chặt chẽ động tác hít và thở, ổn định nhịp thở sâu đều tự nhiên.
2. Ngay ngắn ung dung, mềm mại chậm rãi. Thân thể thả lỏng tự nhiên, không nghiêng không dựa, động tác liên miên không dứt.
3. Động tác đường cong tròn trơn, không ngắc ngứ, lấy hông làm trục, trên dưới theo nhau, toàn thân kết hợp thành một chỉnh thể.
4. Liền lạc hợp điệu, hư thực rõ ràng. Kết hợp các động tác phải liên kết, thuận hoà, chỗ nào cũng phải chia rõ ràng hư thực, giữ ổn định trọng tâm.
5. Nhẹ nhàng, linh hoạt, trầm tĩnh, cương nhu tương trợ. Động tác không được hời hợt, phát kình hoàn chỉnh, mạnh mẽ.
Xem thêm: >> Thuật điểm huyệt hẹn giờ và nghi án Lý Tiểu Long bị hạ thủ?
Thái cực quyền cơ bản dùng 13 thế
chuẩn: Na (dời), tệ (ép), án (đè), thái (ngắt), liệt (dạng ra), trửu (khuỷu),
tiến- lùi, cố (quay), phán (xem), kháo (dựa), định (xét)… làm phương pháp tập
luyện. Xuất quyền yêu cầu lấy tĩnh chế động, lấy nhu khắc cương, lấy thực đánh
hư, mượn sức phát lực… tất thảy “đoán lực mà hoạt, nghe kình mà phát”.
Muốn đạt
đến trình độ thâm hậu như vậy thì da dẻ phải luyện đến mức biết cảm xúc, lấy độ
cảm giác đó để phán đoán chiêu thức của đối thủ, đoán được hư chiêu, thực chiêu
của đối thủ để phản ứng kịp thời.
Vận dụng Thái cực quyền vốn dĩ làm cơ thể khoẻ mạnh, rất có hiệu quả trị tật bệnh nên không những phổ biến tại Trung Hoa mà còn phổ biến trên toàn thế giới. Hiện tại có hàng chục triệu người tập luyện Thái cực quyền mỗi ngày trên khắp các châu lục.
Tuy nhiên, do sự du nhập và phát triển khác nhau nên Thái cực quyền cũng có những chi phái khác nhau. Dù được liệt vào hạng mục thi đấu quốc tế nhưng Thái cực quyền vẫn phân chia rõ ràng, chủ yếu do các dòng họ Trung Hoa sáng tạo và phát triển, bao gồm:
1. Thái cực quyền họ Trần:
Thái cực quyền họ Trần do Trần Vương Bình ở Trần Gia câu, huyện Ôn, tỉnh Hà Nam sáng tạo vào năm 1664. Bao gồm: Thái cực quyền ngũ lộ (năm đường thế), Pháo chuỳ nhất lộ (một đường- một bài), trường quyền gồm 108 thế. Thái cực quyền kiểu họ Trần khi vận động thì không ngừng lắc hông, xoay xương sống, lắc cổ tay xoay vaivà lắc cổ chân xoay đầu gối. Đây là đặc điểm của phép luyện kình lực “kéo tơ” bền lâu không dứt.
Đặc điểm của Thái cực quyền họ Trần có thể khái quát: Cương rõ nhu ẩn, điểm rơi dùng cương, cương mà chặt (khẩn); xoay chuyển đổi dùng nhu, nhu mà lỏng (trì); động tác xoáy trôn ốc chợt ẩn chợt hiện, co phát cùng dùng, nhanh chậm xen nhau, nép ẩn ứng phó, hít thửo tự nhiên. Còn phép hít thở dựa trên “đan điền nội chuyển” và “khí trầm đan điền” được chú trọng kết hợp chặt chẽ.
2. Thái cực quyền họ Dương:
Thái cực quyền họ Dương do Dương
Đăng Phủ kế thừa Thái cực quyền họ Trần mà sáng tạo ra. Phương pháp tấn công
chia ra làm 3 thức: Thấp, vừa, cao. Tốc độ khai quyền tương đối đều đặn, quyền
xuất liên miên không dứt, động tác giản dị gọn gàng.
Kết cấu quyền nghiêm ngặt, ngay ngắn, tròn đầy, nhẹ nhàng vững vàng, toàn thân trang trọng, tạo khí phái lớn, hình tượng đẹp, thanh cao. Phép đánh quyền cương nhu tương hỗ, tích nhu thành cương và rất đề cao thân pháp dựa trên phép thi triển quyền thuật (Chỉ dùng vai tỳ, chân đan, lắc hông, vật đả để hạ đối thủ).
3. Thái cực quyền họ Ngô:
Dựa trên cơ sở Thái cực quyền họ
Dương, 2 bố con Ngô Toàn Hựu và Ngô Giám Tuyền cải tiến, chỉnh sửa hình thành
nên lưu phái Thái cực quyền mới lạ này. Với đặc điiểm rất nổi tiếng là “nhu
hoá”.
Động tác cực kỳ nhẹ nhàng, lỏng tự nhiên nhưng xuất quyền liên tục không dứt, quyền thuật linh hoạt, chiêu thức được chia nhỏ lẻ nhưng quyền xuất liên hoàn, gấp gáp nhưng không lộ sự gò bó, thủ pháp nghiêm mật, chiêu số đa biến, giữ tĩnh mà không ẩu… Tất cả những yếu tố đó làm nên Thái cực quyền Ngô gia vô cùng ảo diệu.
4. Thái cực quyền họ Võ:
Lưu phái này do Võ Vũ Tương cùng
Lý Diệc Xa, dựa trên Thái cực quyền họ Trần để sáng tạo nên. Luyện tập dựa trên
nguyên tắc trong lỏng, ngoài mở, toàn thân từ cơ bắp, xương cốt khi xuất quyền
đều phải “khai”, thi triển hết sức mạnh,
rồi đột ngột thu quyền (hợp). Khai là phát lực, phát ý, toả thần khi xuất
chiêu. Hợp là toàn thân xương khớp phải có ý thức co lại theo thuyết “Chợt ẩn
chợt hiện”.
Phong cách này thể hiện rõ lối đánh của Thái cực quyền họ Vũ là phải luyện khí ngầm, khi xuất quyền dùng nội kình tương trợ, khi thu quyền thì mau chóng chuyển đổi, hai tay thu về phòng thủ nửa thân trên, nửa thân dưới dùng thân pháp che chắn kín đáo. Nhìn chung, Thái cực quyền Vũ gia lấy công làm thủ, thân pháp kín đáo, xuất chiêu rất khó lường, yêu cầu đạt được là “Ngoại thị an dật, nội cố tinh thần” (bên ngoài vẻ an nhàn, bên trong kiên cố lại tinh thần).
5. Thái cực quyền họ Tôn:
Thái cực quyền họ tôn do đại danh sư Tôn Lộc Đường (1861-1932) tích hợp tất cả những thế mạnh của Thái cực quyền họ Võ cùng với Hình ý quyền và Bát quái chưởng để sáng tạo ra một lưu phái riêng. Đặc thù của Thái cực quyền họ Tôn là tấn bộ nhanh, động tác ngắn, gấp gáp, chú trọng vào thu, phóng, khai, hợp… Khi luyện tập thì yêu cầu tiến lùi theo nhau, bước lên nối gót, lùi bước thì cùng rụt hai chân về, động tác phải mau lẹ, linh hoạt.