Ngựa Mông CổĐây là nòi ngựa chiến nổi tiếng sinh ra trên các vùng thảo nguyên Mông Gobi thời đế quốc Nguyên Mông thế kỷ VII - XIII. Ngựa Mông Cổ có tầm vóc trung bình, cao 1,4m, màu nâu đỏ hoặc nâu sẫm, tốc độ chạy từ 30-40km/h. Giống ngựa này rất dai sức, có thể phi nước kiệu trong 10 giờ liền nên từ xưa ngựa Mông Cổ đã được mệnh danh là “thiên lý mã”.
Ngựa Ả RậpNòi ngựa này có tầm vóc trung bình, cao 1,35-1,4m, lông màu nâu có điểm đốm trắng nên còn gọi là “ngựa hoa mai”.
Ngựa có hình vóc thon lẳn, chạy nhanh không kém ngựa Mông Cổ, thích nghi với điều kiện khô hạn của những vùng xa mạc mênh mông thuộc các nước Ả Rập, vùng Trung Cận Đông.
Ngựa AnhĐây là nòi ngựa có tầm vóc to lớn, cao 1,4-1,5m, nặng 350-400kg, màu đỏ nâu (còn gọi là ngựa hồng) hoặc màu trắng muốt (ngựa bạch), thân hình cân đối, chắc khỏe. Vì thế mà đế quốc Anh trước kia hùng mạnh vào bậc nhất thế giới nhờ có đội kỵ binh khá mạnh và thiện chiến này. Hiện nòi ngựa Anh là nòi ngựa đua được cả thế giới hâm mộ.
Ngựa CabardinCabardin là nòi ngựa có tầm vóc dáng cao 1,4 - 1,5m, nặng 350 - 400kg, là giống ngựa chuyên dùng làm ngựa chiến, ngựa đua và dùng để thồ kéo.
Nòi ngựa này chịu lạnh rất giỏi, chúng thích hợp với điều kiện thời tiết khắc nghiệt như ở nước Nga và các nước Bắc Âu - nơi có mùa đông kéo dài.