Trong khi đó, tác phẩm Toản tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư do Đỗ Bá, tự Công Đạo soạn vào thế kỷ XVII có bản đồ nước An Nam từ thế kỷ XV, trên đó đã chỉ rõ quần đảo Hoàng Sa trong Biển Đông dưới tên gọi Bãi Cát Vàng thuộc phủ Quảng Nghĩa.
Bản đồ của Đỗ Bá có 3 chữ Nôm Bãi Cát Vàng ở dưới. Ảnh: Tư liệu.
Trong bài viết của mình, giáo sư Yingchun đưa ra một thông tin quan trọng. Đó là, trước sự kiện Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa vào năm 1974, vị này giải thích đó là hành động “tự vệ”. Theo Hiến chương LHQ, chiếm đóng bằng bạo lực không mang lại chủ quyền nhưng ông Yingchun lại viện dẫn điều 51 Hiến chương LHQ rằng một nước có chủ quyền có quyền tự vệ để duy trì tính toàn vẹn lãnh thổ của mình. Do đó, hành động của Trung Quốc năm 1974 là dùng quân sự để chống lại quân đội của Việt Nam Cộng Hòa để bảo vệ “lãnh thổ” của họ.
Các đảo nhỏ trong quần đảo Hoàng Sa.
Trên thực tế, chưa một quốc gia hay điều khoản nào trong luật pháp quốc tế công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên quần đảo Hoàng Sa. Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ cố hữu của Việt Nam. Do đó, thực chất hành động của Trung Quốc chỉ là lợi dụng thời điểm lịch sử đó để đưa quân đội vào chiếm đóng bất hợp pháp. Những lý lẽ, hay nói đúng hơn là lời lẽ của giáo sư Yingchun chỉ khẳng định một lần nữa: Trung Quốc đã thực sự dùng đến vũ lực để có được Hoàng Sa.