Dân Việt

Gặp người từng được nếm cà phê chồn và thực hư về thức uống "huyền thoại"

09/07/2014 06:51 GMT+7
Mỗi năm chỉ có một mùa cà phê duy nhất từ tháng 8 đến tháng 12. Trong khoảng thời gian này, vào ban đêm, những con chồn hương, tên khoa học là cầy vòi đốm đi kiếm ăn. Chúng lẻn vào lô cà phê để thưởng thức những trái cà phê chín mọng trên cành mà chúng lựa chọn rất kỹ bằng bản năng siêu phàm của mình.

Vừa đặt chân đến Buôn Ma Thuột, chúng tôi được một thổ địa ở đây dẫn đến nhà ông Nguyễn Vịnh ở xã Ea Ktur, huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk. Ông Vịnh là một trong những người hiếm hoi ở Việt Nam được nếm hương vị nguyên thủy của cà phê chồn tự nhiên cách đây gần 40 năm.

Hiện ông là nhà tư vấn nông dân về cà phê và các loại nông sản khác trên các trang web do chính ông sáng lập.

Nói về sự ra đời của cà phê chồn, ông Nguyễn Vịnh cho biết cà phê chồn tại Việt Nam xuất hiện một cách tự nhiên vào nửa đầu thế kỷ 20, khi cây cà phê được người Pháp du nhập sang và trồng đại trà thành những đồn điền rộng lớn nằm sát những cánh rừng đại ngàn tại vùng đất Tây Nguyên.

Mỗi năm chỉ có một mùa cà phê duy nhất từ tháng 8 đến tháng 12. Trong khoảng thời gian này, vào ban đêm, những con chồn hương, tên khoa học là cầy vòi đốm đi kiếm ăn. Chúng lẻn vào lô cà phê để thưởng thức những trái cà phê chín mọng trên cành mà chúng lựa chọn rất kỹ bằng bản năng siêu phàm của mình.

Cũng trong đêm đó, con chồn chỉ nhằn phần ngoài hạt cà phê, nhả vỏ mềm bên ngoài và nuốt nguyên trái gồm phần thịt và hạt. Sau quá trình tiêu hóa, phần hạt cà phê được thải ra. Nhân cà phê vẫn được bao bọc nguyên vẹn trong vỏ trấu.


img

“Cà phê cứt chồn” nhân tạo tại một cơ sở được  phơi khô thành từng lọn. Ảnh: Quang Huy

Hồi đó, những người nông dân đi thu hái cà phê cho chủ đồn điền đã thấy những đống phân chồn trộn lẫn hạt cà phê này. Họ xin các ông cai mang về phơi khô, chà vỏ và rang chế biến chúng thành thức uống. Sau đó ông cai biết, rồi chủ người Pháp cũng biết đến và đều cho rằng nó có hương vị thơm ngon hơn cà phê bình thường. Từ đó cà phê chồn trở nên nổi tiếng.

Ngược về quá khứ, ông Vịnh kể: “Sau ngày đất nước thống nhất, tôi được điều lên công tác ở Tây Nguyên. Các công ty nông nghiệp quốc doanh tiếp quản thành lập các nông trường. Đắk Lắk khi ấy đã là thủ phủ của cây cà phê. Khi đến mùa cà phê chín, thiếu công nhân, lực lượng khối cơ quan và học sinh khối THPT phải đóng cửa trường học cả tuần để tham gia cùng ngành nông nghiệp địa phương thu hái.

Tôi đã biết đến cà phê chồn từ lúc đó. Là cán bộ tăng cường, tôi làm quen nhanh với những ông cai (nguyên là cai của những chủ đồn điền người Pháp trước đây giờ được sử dụng làm cán bộ kỹ thuật) và theo chân họ đi nhặt cà phê chồn về rang xay để uống. Qua trò chuyện với các ông cai và với những công nhân thu hái, tôi biết rõ hơn về nguồn gốc và được thưởng thức thường xuyên hương vị loại cà phê này”.

Tuy nhiên, theo ông Vịnh, đặc sản này dần biến mất bởi những đợt di dân từ sau năm 1975 đến nay. Dân số vùng Tây Nguyên tăng nhanh chóng. Người ta phá rừng để tăng diện tích trồng trọt, nạn săn bắt tăng làm suy giảm loài chồn. Từ đó hình ảnh con chồn vào rẫy cà phê càng hiếm hoi lấy gì đến chuyện nhặt được cà phê chồn.

Nói vậy nhưng ông Vịnh vẫn cho biết cà phê chồn tự nhiên vẫn còn ở Việt Nam và một số nước trên thế giới như Indonesia, Philippines, Ethiopia... nhưng rất ít, không thể thành hàng hóa.