Trao đổi với NTNN, TS Nguyễn Thanh Sơn - Viện trưởng Viện Chăn nuôi Quốc gia (Bộ NNPTNT) khẳng định, nguồn cung bò thịt sản xuất trong nước chưa đáp ứng đủ nhu cầu. Trong 5 năm gần đây, tổng đàn bò nước ta đã giảm hơn 650.000 con, từ 5,81 triệu con năm 2010 giảm xuống còn 5,15 triệu con năm 2013. Khi cung không đủ cầu thì việc nhập khẩu là tất yếu.
Nhưng thực trạng hiện nay bò Úc nhập khẩu vào VN đang chiếm lĩnh thị trường TP.HCM (chiếm 60 – 70% thị phần). Bò Việt đã biến mất khỏi các siêu thị, cửa hàng, quán ăn, thay vào đó là bò Úc?
- Việt Nam chưa có ngành chăn nuôi bò thịt theo đúng nghĩa. Qua việc bò Úc tràn ngập, có thể thấy lộ rõ yếu kém của ngành. Chăn nuôi bò thịt hiện nay còn manh mún, nhỏ lẻ và được nuôi chủ yếu tại các hộ nông dân không chuyên nghiệp. Bò chủ yếu là chăn nuôi kiêm dụng, quy mô sản xuất nhỏ, giống năng suất thấp. Khi bán bò lại qua nhiều khâu trung gian, dẫn đến chi phí giao dịch trong toàn chuỗi cao. Trên thị trường thiếu các giống bò thịt cao sản, thiếu đàn bò cái chuẩn, nên giá bò giống quá cao. Mạng lưới thụ tinh nhân tạo bò không phát triển. Trong khi đó diện tích đồng cỏ cho chăn thả rất ít vì đa số đất đã sử dụng cho việc trồng các cây lương thực và cây công nghiệp.
Có ý kiến cho rằng, chăn nuôi bò không phải là lợi thế của Việt Nam, khi mà chúng ta không có điều kiện chăn nuôi đại gia súc theo quy mô lớn (trong khi đây lại là thế mạnh của bò Úc). Sắp tới, các Hiệp định TPP, AFTA,… có hiệu lực, thuế suất nhập khẩu thịt sẽ về bằng 0, lúc đó bò trong nước sẽ còn thua bò nhập?
- Thực ra chăn nuôi bò sữa trước đây cũng giống như bò thịt bây giờ, có ai tin là VN nói chung và đặc biệt là các vùng ít có điều kiện khí hậu thuận lợi như Nghệ An, Thanh Hóa lại phát triển được bò sữa. Vấn đề cơ bản là có các chính sách khả thi, khuyến khích các thành phần kinh tế cùng đầu tư phát triển. Thị trường thịt bò ở VN vẫn còn nhiều tiềm năng. Kết quả nghiên cứu của Viện Chăn nuôi cho thấy, quy mô vừa và lớn có hiệu quả hơn và có sức cạnh tranh hơn so với chăn nuôi quy mô nhỏ, 3 vùng sinh thái (Tây Bắc, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ) có hiệu quả kinh tế chăn nuôi bò cao nhất so với các vùng còn lại.
Nếu chúng ta đã không có lợi thế về việc phát triển bò thịt, thì chúng ta có nên đầu tư để phát triển ngành này hay nên để nhập khẩu toàn bộ?
-Tôi không đồng tình với quan điểm này. Một số vùng của chúng ta vẫn có tiềm năng phát triển bò thịt. Hàng năm nước ta có một lượng phụ phẩm nông nghiệp lớn (khoảng 32 triệu tấn rơm, 14 triệu tấn thân cây ngô; 5 triệu tấn bã sắn; 3,9 triệu tấn bã mía và khối lượng rỉ mật là 580.000 tấn) có thể sử dụng cho chăn nuôi gia súc lớn, trong đó có bò thịt. Kinh nghiệm vỗ béo bò ở nước ta và một số nước cho thấy có thể vỗ béo bò lai F1 bằng khẩu phần thức ăn có: Bã mía (35-41%), rỉ mật (5%) và thức ăn tinh (cám, bắp). Sau 100 ngày vỗ béo đạt tăng trọng bình quân: 866-921 gram/ngày. Kết quả nghiên cứu của Viện Chăn nuôi cho thấy thân cây ngô ủ chua có thể thay thế 48% cỏ xanh trong khẩu phần mà không ảnh hưởng đến khả năng sản xuất của bò. Rơm ủ urê có thể bổ sung tới 15% khẩu phần ăn của bò. Với lượng phụ phẩm này, nếu chế biến hợp lý, chúng ta có thể tăng đàn bò lên vài triệu con với giá thành giảm nhiều so với hiện nay.Từ trước đến nay, chúng ta vẫn chưa có một chính sách nào thực sự thúc đẩy việc phát triển đàn bò trong nước. Ngay cả trong đề án tái cơ cấu ngành chăn nuôi vừa được Chính phủ thông qua, Bộ NNPTNT cũng chỉ nói đến phát triển đàn bò sữa. Vậy cơ chế nào để bò nội có thể sống được trước “cơn lốc” bò ngoại nhập vào VN?
- Đúng vậy, nếu chúng ta có chính sách hợp lý, đàn bò thịt trong nước vẫn còn nhiều cơ hội để phát triển. Theo đó cần có chính sách tương tự như chính sách phát triển bò sữa trước đây. Trong đó tập trung hỗ trợ về giống: Tiếp tục thực hiện chương trình Zebu hóa đàn bò để tạo đàn bò cái nền tốt, từ đó lai tạo ra các giống bò thịt phù hợp với từng vùng miền, làm cơ sở cho việc chuyển dần đàn bò thịt từ sản xuất nhỏ lẻ sang sản xuất hàng hóa. Cũng cần hỗ trợ nhập khẩu bò đực giống tốt để sản xuất tinh đông lạnh phục vụ thụ tinh nhân tạo và hỗ trợ về tín dụng, cơ sở hạ tầng, đào tao tập huấn kỹ thuật,… Đồng thời phải giải quyết đồng bộ những cản trở kỹ thuật cũng như những khó khăn về thị trường theo chuỗi; khuyến khích liên kết ngang, liên kết dọc.
Xin cảm ơn ông!