Quê gốc của ông Tân ở tận Huế, mấy chục năm trước gia đình ông chuyển vào Nam sinh sống. Lúc đầu ông làm ruộng ở Hòa Mỹ (Phụng Hiệp) nhưng không đủ sống. Ông Tân kể: “Năm 5 tuổi, trong một lần bị sốt thương hàn, bị chích nhầm thuốc, từ đó chân phải tôi teo dần lại”.
Không đầu hàng số phận, ông Tân ra sức luyện tập để tự đi lại và sinh hoạt mà không phải nhờ người thân giúp đỡ. Trước khi làm nghề trục vớt ghe, tàu, ông Tân sống bằng nghề bán bánh lá dừa quanh các bến xe, khắp các ngả chợ ở Ngã Bảy để kiếm bữa ăn sống qua ngày.
Sống tại ngã bảy sông, nơi giao nhau của các con sông lớn đổ về nên ông Tân chứng kiến không ít trường hợp xuồng ghe của người dân bị chìm. Không sợ nguy hiểm, ông lao ra cứu người, vớt đồ đạc, tài sản, ghe chìm... Công việc không ai dám làm đó chỉ có mình ông đảm nhiệm. Năm 2000, bà con thương xót cho ông mượn 7 triệu đồng mua chiếc ghe tam bản và chiếc xe Honda 5.5 mã lực để thuận tiện cho việc mưu sinh.
Ông Tân nhớ lại: “Năm 20 tuổi, lần đầu tiên tôi cứu vớt 2 vợ chồng thương binh đi bán muối trên chiếc ghe nhỏ. Người chồng bị cụt một chân, 2 vợ chồng già yếu. Thấy ghe chìm nên tôi cứu, rồi thấy người ta nghèo mình cũng giúp họ đổ xăng về nhà, không nhận tiền công. Sau này, hai vợ chồng đó có quay lại và đền ơn 10kg gạo, tự nhiên thấy ấm lòng”.
Không chỉ làm việc ban ngày mà cả ban đêm, chỗ nào có tai nạn tàu ghe, sà lan chìm, ai nhờ là ông đều giúp. “Có những khi, dù đêm hôm lạnh lẽo, đang ngủ mà nghe tiếng la thì cũng phải tốc dậy mà lặn tìm và nâng lên cho bằng được để người gặp nạn có thể về nhà. Sống ở miền sông nước này, cái ghe, cái xuồng là cả gia nghiệp của người dân nơi đây”.
Ông Hồ Văn Tân cho biết thêm, khó khăn nhất là trục vớt những ghe, tàu lớn chở cát, đá hơn trăm tấn vì ghe nặng nên chìm sâu và bám chặt đáy sông. Ông phải vác từng cần xé (đồ đựng bằng mây tre) để đổ vật liệu ra khỏi ghe, rồi mới từ từ nâng ghe lên, có khi phải ở dưới nước 3-4 tiếng đồng hồ.