Một vùng trời nước bao la. Núi xanh. Sông đỏ. Chiếc thuyền tôn bé nhỏ lướt đi trong gió phần phật, nắng dạt dào. “Tòm”. Sợi dây rà quăng xuống đáy đã bắt trúng vào bát quái (ngư cụ đánh cà ra) làm mấy người trên thuyền hối hả kéo.
Cà ra sông, cà ra đồng
Cả thân hình ngư phủ nhoai ra căng như một sợi chão. Mặt người là là mặt sóng. Theo nhịp kéo gấp gáp cuối cùng cái bát quái cũng trồi lên để lộ ra những cái chân sắc nhọn của đám cà ra thò ra ngoài lưới. Từ càng, từ chân chúng nước nhỏ thành dòng cứ tong tong. Tay người lúc này phải thật khéo léo vừa gỡ lưới, vừa bắt sao cho tránh khỏi những cú cắp nát thịt bất thình lình của loài cua sông nổi tiếng là hung dữ này.
Niềm vui của thợ săn.
Trương Văn Lập quê gốc ở xã Minh Hòa (Kinh Môn, Hải Dương) vốn thạo nghề trên sông nước. Trước đây, Lập từng là một thủy thủ viễn dương theo những chuyến tàu hàng vượt biển sang các nước. Sau chán cảnh nổi trôi của phận làm thuê, anh bàn với vợ về quê mua một chiếc thuyền nhỏ, sắm một ít ngư cụ ra sông Kinh Thầy đánh cà ra.
Cua ra, cà ra, cua lông hay cua sông đều là tên gọi khác nhau của một loài có thân hình giống như con ghẹ nhưng chỉ sống ở nước ngọt, đầu càng có một túm lông mềm, mịn như nhung. Khác với mọi loài ghẹ, cù kì hay cua khác đều có một càng rất to và một càng nhỏ, cà ra chỉ có hai chiếc càng nhỏ như nhau. Trọng lượng cua sông to nhất vào khoảng độ hai lạng.
|
Hồi nhỏ, Lập từng cùng đám bạn quần cộc, đầu trần trốn ngủ trưa đi đào cà ra. Lúc ấy cà ra ở trong đồng nhiều vô kể, ở đìa Mặn, đìa Vàng chúng đào hang làm tổ hệt như cua. Cứ sáng ra, nhìn hang nào mụn mà nổi to bằng hạt đậu đen là hang cà ra còn mụn mà nổi to bằng hạt đậu tằm là hang cua đồng.
Hang cà ra vừa sâu lại lắm ngách thoát hiểm. Đào bằng thuổng nhiều khi không thấu nên đám trẻ thường cho một nắm vôi vào.
Xót thịt một chốc là cà ra phải bò ra. Có hang được đến trên mười con lốc nhốc.
Đó là cách bắt cà ra trong đồng còn trên sông hồi ấy hầu như không có ai chủ đích đi bắt cả. Với thân hình kềnh càng, bộ gọng sắc nhọn, bản tính hung dữ nên chúng thường xuyên làm rách lưới của ngư dân.
Thêm vào đó giá bán cà ra khi xưa cũng rất rẻ, thậm chí có buổi chợ mời mọc mỏi mồm, gãy lưỡi cũng chẳng ai mua.
Bởi thế, khi lưới dính cà ra dân vạn chỉ giữ lại vài con to để ăn rồi thả chúng lại xuống nước.
Chèo thuyền trên sông Kinh Thầy
Vài năm gần đây cà ra bỗng dưng thành đặc sản. Giá một cân cua sông từ 200.000 - 300.000 đồng nhưng không phải hễ xỉa tiền ra là kiếm được. Trong đồng thì nông dân vãi thuốc sâu, phân hóa học như mưa nên cà ra thành ra tuyệt tích đã đành còn dưới lòng sông ngư dân xiệc điện tràn lan khiến chúng cũng chẳng kịp sinh sôi. Thế là thành ra của hiếm!
Cà ra lớn nhanh sau mỗi lần lột vỏ. Một năm tuổi vỏ của chúng đã lên nước đen xì. Người sành ăn cà ra thường chọn con màu vàng để có mình mẩy, đầy bụng gạch hay con màu đen để vừa già cua lại vừa ngọt thịt và đặc biệt tránh mua vào loại vỏ màu xanh trắng.
Thế trận bát quái
Giống cua lông này bơi rất cừ, dưới nước nhanh nhẹn không khác gì loài cá. Hễ nghe thấy tiếng động là chúng mất hút nơi đáy sông. Bởi thế không bao giờ người ta có thể bắt được cà ra bằng tay ở sông mà phải dùng bẫy. Ban đầu là bẫy rọ, bẫy vợt với mồi nhử là một con cá chết. Cứ mỗi vợt, mỗi rọ chỉ bắt được một con cà ra.
Kể từ khi bát quái - loại bẫy đan bằng lưới dài cả chục mét, được cố định trong một cái khung sắt cứng với hàng loạt cái hom ra đời, "cuộc cách mạng" đánh bắt thủy sản đã bắt đầu. Tôm, cua, cá nhìn thấy bát quái tưởng nhầm là chỗ trú ẩn liền tìm đến. Vào được mà ra thì không nổi. Một bát quái có thể bắt được mươi, mười lăm con cà ra cũng không phải là chuyện hiếm gặp.
Khúc sông này ngoài thuyền của anh Lập còn có thuyền anh Liễu, anh Hùng cũng hành nghề đánh bắt cà ra. Họ chia nhau mỗi người cát cứ một khoảnh.
Cà ra sông.
Anh Liễu bảo: “Cua tháng ba, cà ra tháng tám”. Cà ra chớm mùa vào tháng bảy, tháng tám âm lịch nhưng rộ nhất là khi đông ken tức tháng chín, tháng mười, rất béo và đầy thịt. Lúc đó cua sông vỡ tổ, không ở cố định trong hang mà rong chơi từng đàn.
Người ta gọi đó là mùa cua trôi. Chúng đi như trẩy hội, không bò nữa mà bơi lổm ngổm, bạ cái gì bậu vào cái đó. Từ sông Kinh Thầy cà ra bơi tới chỗ nước ngọt chạm vào nước lợ rồi lại ngược về.
Nhấc một cái bát quái lúc đó chẳng khác gì nhấc một tổ ong bò vẽ, đen đặc cà ra. Nhất là khi vào những ngày giữa con nước có buổi đánh được cả yến. Đầu mùa cà ra còn nhỏ, trọng lượng chỉ cỡ 2 con/lạng nhưng cuối mùa thịt dưới mai đầy lên nặng tới 2 lạng/con.
Cà ra thường làm hang ở chỗ nước sâu cả chục mét hay trong các kè đá. Lòng sông đục ngầu nên chỉ có giác quan thứ sáu của thợ săn mới đoán định được vệt chúng đi. 70 cái bát quái của anh Liễu được thả xuống xong xuôi. Cứ mươi cái lại buộc nối vào nhau bằng dây thành một trận đồ với những mỏ neo ghim giữ sao cho lưới phải thật căng, thật thẳng.
Kéo bát quái.
Đáy sông, lòng người có ai dò được? Thế mà dân đánh cà ra thuộc đáy sông không khác gì thuộc con đường đi ở làng mình. Bát quái phải được đặt trên một mặt phẳng như mặt sân. Nhấc cái nào lên có cà ra là đáy sông chỗ đó phẳng, cái nào không là đáy sông chỗ đó gập ghềnh khiến lưới bị kênh.
Khúc sông nào sâu nhưng nước không chảy mà chỉ vật loanh quanh là chỗ cà ra thích nằm nghỉ ngơi nhất. Loài cua này có tập tính đi ăn đêm nên bát quái phải thả từ trưa hôm trước đến sáng ngày hôm sau mới nhấc. Bát quái khi thả rất nhẹ nhàng nhưng lúc nhấc mới là công việc thực sự thử thách cơ bắp và sự dẻo dai của dân chài.
Trời ngả về chiều, mặt sông lóng lánh như được dát vàng, dát bạc. Đám lậu ven bờ lòa xòa những chiếc lá trên mặt nước. Mặt lá lắm cái phù sa còn đọng lại thành từng ngấn. Thuyền chúng tôi quay mũi, ngược dòng. Lúc này bát quái đã được chất đầy khoang còn đám cà ra trong cái xô nhựa đang khua càng kêu lên rinh rích, “thổi cơm” trắng xóa bọt nơi khóe mồm.
Cà ra ở Hồng Kông (Trung Quốc) được xem như một "hàn thử biểu" đặc biệt để đo độ yếu mạnh của nền kinh tế toàn cầu. Ở trung tâm tài chính, thương mại của cả thế giới này giá một con cà ra trong các nhà hàng sang trọng với ánh nến vàng vọt, tiếng nhạc bổng trầm có thể lên tới cả trăm đô la Mỹ.
Người Hồng Kông đặc biệt chuộng cà ra bởi thịt chúng mềm mà thơm chứ không bị oi oi như thịt cua, thịt ghẹ. Người ta thống kê cứ mỗi lần kinh tế thế giới suy thoái thì doanh thu của cà ra ở Hồng Kông lại sụt giảm thê thảm theo.