Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn bùng nổ vào mùa Xuân năm Mậu Tuất (1418), từ đó cho đến năm Qúy Mão (1423), quân Lam Sơn chỉ hoạt động quanh quẩn ở vùng núi Thanh Hoá, bị quân Minh nhiều lần đánh bại, tình thế vô cùng khó khăn.
Đúng thời điểm đó, tướng Nguyễn Chích đã hiến kế với Lê Lợi rằng: “Nghệ An là nơi hiểm yếu, đất rộng người đông. Tôi đã từng qua lại Nghệ An nên rất thông thuộc đường đất. Nay hãy đánh trước lấy Trà Lân, chiếm cho được Nghệ An để làm chỗ đứng chân, rồi dựa vào nhân lực tài lực đất ấy mà quay ra đánh Đông Quan thì có thể tính xong việc dẹp yên thiên hạ”.
Chấp thuận kế hoạch của ông, Lê Lợi quyết định tiến vào Nghệ An và công việc quan trọng bậc nhất là phải tiêu diệt được đồn Đa Căng (nay thuộc xã Vạn Hòa, huyện Nông Cống, Thanh Hoá). Đây là đồn lũy trấn giữ vị trí hiểm yếu nên quân Minh bố trí lực lượng rất mạnh do tên chủ tướng Lương Nhữ Hốt chỉ huy.
Bọn giặc rất cảnh giác, chúng không cho bất kỳ ai đến khu vực quanh đồn, canh giữ nghiêm ngặt, nội bất xuất ngoại bất nhập. Muốn chiếm được đồn giặc này cần phải có lực lượng lớn, nếu hạ được tổn thất sẽ không thể tính được, điều đó khiến bộ chỉ huy nghĩa quân Lam Sơn lo lắng, phân vân.
May mắn thay, trong số nghĩa quân hoạt động ở vùng này thời đó cho biết, có một người có thể làm nội ứng giúp chiếm đồn Đa Căng, người đó là một bà lão làm nghề đỡ đẻ, thường được gọi là mụ Vườn. Thấy bà già yếu không có khả năng làm gì hại chúng được nên giặc Minh cho phép bà ra vào đồn trại để lo việc hầu hạ, chăm sóc vợ con tướng giặc khi sinh nở. Chúng đâu ngờ rằng bà cụ lại là cơ sở tình báo của nghĩa quân, thường xuyên liên lạc cung cấp thông tin trong đồn cho quân ta.
Khi nhận được lệnh phải để ý cách canh phòng, bố trí lực lượng phục vụ cho cuộc tấn công sắp tới, mụ Vườn đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Biết rõ được nội tình của giặc, quân Lam Sơn do Lê Lợi trực tiếp chỉ huy tổ chức đánh úp đồn Đa Căng ngày 20 tháng 9 năm Giáp Thìn (tức ngày 12.10.1424), giành được thắng lợi lớn.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Mùa Thu, tháng Chín, ngày 20, vua chỉ huy quân và voi đánh úp đồn Đa Căng, phá được đồn này. Tham chính nhà Minh là Lương Nhữ Hốt chỉ chạy thoát được thân mình, ta thu hết khí giới, đốt phá đồn giặc. Đô chỉ huy sứ nhà Minh Nguyễn Suất Anh đem quân đến cứu viện, nhưng đồn đã mất. Anh chưng hửng, không chỗ bấu víu, vua lại đánh bại chúng. Anh chạy vào thành Tây Đô. Vợ con của Anh bị ta bắt được, vua đều tha cho về cả”.
Theo sách Lam Sơn thực lục, trong trận này “ta đánh thắng, giặc thua to, chạy vào Tây Đô”, “giặc bị chém đầu và chết đuối hơn 1.000 tên”. Chiến thắng đó đã khai thông đường tiến vào Nghệ An, giúp quân ta liên tiếp hạ được các thành lũy, đồn trại của giặc và chỉ trong vòng chưa đầy một năm kể từ khi thực hiện kế hoạch của Nguyễn Chích, quân Lam Sơn làm chủ cả vùng rộng lớn từ Thanh Hóa vào Thuận Hoá, cho thấy hiệu quả của việc thay đổi chiến thuật này rất lớn.
Chuyện kể rằng sau trận hạ đồn Đa Căng, Lê Lợi ban thưởng lớn cho nghĩa quân, công đầu thuộc về "mụ Vườn". Ông còn cho đổi tên Đa Căng có nghĩa là khoe nhiều như bọn giặc từng tự đắc về lực lượng của chúng, đặt lại thành tên gọi Bất Căng nghĩa là không sợ, cũng có nghĩa là không khoe được.
Ngày nay tại làng Bất Căng còn một số dấu tích liên quan như cồn Bà Già là nơi chôn cất "mụ Vườn" sau khi bà mất, nền đồn lính của quân ta gọi là Phong Bái, đường quân ta đi gọi là Vân Lộ đều mang ý nghĩa phong vân đắc lộ, đường mây gặp gió, thênh thang tiến bước đi đến chiến thắng của nghĩa quân Lam Sơn.