Báo cáo của Bộ Khoa học Công nghệ (KHCN) cho biết: Việt Nam hiện có khoảng 10.895 cán bộ KHCN đang trực tiếp nghiên cứu công nghệ nông nghiệp. Tiền đầu tư chiếm hơn 1/3 kinh phí sự nghiệp KHCN, còn kinh phí đầu tư thông qua Bộ NNPTNT 5 năm qua trung bình 1 năm ngân sách nhà nước chi hơn 1.000 tỷ đồng cho nghiên cứu và chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật (KHKT) nông nghiệp. Số tiền đó rất lớn, vậy tại sao nền KHCN phục vụ cho nông nghiệp vẫn chưa có thành tựu gì đáng kể?
Nếu nói ngành nông nghiệp của ta chưa phát triển gì đáng kể là chưa khách quan, bởi vì nước ta từ chỗ phải nhập khẩu lương thực bây giờ là nước có thứ hạng trong việc xuất khẩu gạo. Mỗi năm chúng ta xuất khẩu các mặt hàng nông sản và thủy sản đạt 30 tỷ USD, chiếm 20% tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam.
Tháng 6.2013, Bộ trưởng có nhắc đến việc áp dụng công nghệ bảo quản tiên tiến nhất của Nhật Bản, Israel để đảm bảo cho người nông dân có được sản phẩm có giá trị tối đa. Vậy Bộ KHCN hiện đang tiến hành việc này như thế nào, có khó khăn gì trong quá trình áp dụng không?
- Việc bảo quản chế biến sau thu hoạch là quan trọng để nâng cao giá trị nông sản, thủy sản của Việt Nam. Thời gian 1 năm đúng là dài, nhưng để làm chủ 1 công nghệ và đưa vào ứng dụng sản xuất công nghiệp thì thời gian cũng không phải dài.
Năm 2013, Bộ đã tiếp cận công nghệ Cash của Nhật Bản và công nghệ Juran của Israel bảo quản rau quả và đã thí nghiệm thành công trên cá ngừ, tôm sú và quả vải thiều. Vụ vải vừa rồi, 1 container vải được bảo quản công nghệ Cash đã được đưa đến Nhật Bản và được đánh giá cao.
Tuy nhiên, để đầu tư thì chúng ta phải xây dựng thị trường, vấn đề là làm thế nào Nhật Bản chấp nhận nhập khẩu vải vào thị trường mới là vấn đề quan trọng. Việc này thì Chính phủ đã giao cho Bộ Công Thương làm việc với các đối tác Nhật Bản đến bạn tiếp nhận, tương tự như vậy với cá ngừ. Chúng ta đã làm chủ được thiết bị câu cá ngừ, thứ hai là công nghệ bảo quản cá ngừ công nghệ Cash.
Hiện chúng tôi đang chuẩn bị đầu tư nhà máy công nghệ bảo quản cá ngừ ở Phú Yên, chúng tôi hy vọng với việc làm chủ được thiết bị câu cá ngừ đại dương với nhà máy này sắp tới cá ngừ của Phú Yên và Bình Định sẽ bán sang Nhật Bản với số lượng nhiều và chất lượng tốt hơn. Riêng đối với quả vải, quả chôm chôm sau này sẽ tiến tới thanh long chúng ta có thể sử dụng công nghệ của Nhật và Israel để đảm bảo chất lượng cao hơn và xuất khẩu nhiều hơn.
Việc cho phép sản xuất các loại lương thực, ngũ cốc biến đổi gen là điều lợi bất cập hại, bởi vì tuy giúp chúng ta bớt phụ thuộc vào nhập khẩu nhưng sẽ phải phụ thuộc về giống. Trong khi tác động của loại cây trồng này đến sức khỏe và môi trường vẫn chưa được kiểm định đầy đủ. Ý kiến của Bộ trưởng như thế nào?
- Cây trồng biến đổi gen có ưu điểm là có năng suất cao chống chịu được yếu tố sâu bệnh, khí hậu và năng suất ổn định. Tuy nhiên, lo ngại của bà con nông dân cũng có ý đúng là chúng ta bị phục thuộc về giống bởi chúng ta chưa làm chủ công nghệ về giống với cây trồng biến đổi gen, vì thế lực lượng khoa học của chúng ta phải nhanh chóng làm chủ được các khoa học công nghệ để tự túc được giống.
Trên thực tế Viện Nghiên cứu ngô của chúng ta cũng tạo ra các sản phẩm biến đổi gen nhưng chúng ta chưa triển khai đại trà và quy mô lớn. Vì thế sau một thời gian khảo nghiệm thấy rằng cây ngô và đậu tương biến đổi gen được mở rộng diện tích, đồng thời Bộ TNMT cũng đã cấp phép an toàn sinh học đối với hai loại cây này.
Trước mắt, ngoài việc chúng ta mở rộng diện tích khảo nghiệm, trong tương lai các Viện nghiên cứu của chúng ta phải nhanh chóng làm chủ được công nghệ tạo giống và vẫn nghiên cứu tác hại lâu dài nếu có của cây trồng biến đổi gen đối với sức khỏe con người.
- Xin cảm ơn Bộ trưởng!