Còn cá nanh heo sông Mekong là loại cá nhỏ – bề ngang khoảng một lóng tay là ngon nhất. Miệng cá có sợi râu trông giống nanh heo nên cũng được gọi là cá nanh heo, thường gọi tắt là cá heo. Con cá này dân Tây kêu là bleeker vì chúng khi đuổi bắt mồi thường phát ra tiếng kêu như tiếng chắt lưỡi.
Cá nanh heo mùa di chuyển ngược dòng sau nước nổi không còn mấy, hoặc nếu còn thì những con quá lứa không ngon, nhưng trở thành món quý hiếm. Cũng phải hơn một năm rồi, mới có duyên tái ngộ với món cá này. Ngon nhất là kho lạt. Nhưng phải hơi khác kiểu miền Tây chỉ xâm xấp nước, dân Sài Gòn ưa nhiều nước hơn – cũng giống như mì Quảng lai Sài Gòn – để có thể ăn với rau ghém cùng bún. Trong rau ghém ấy phải có mấy cọng xoài xắt mỏng mới đủ vị. Mỡ cá có vị hơi béo và thơm.
Ngoài cá nanh heo sông Mekong trong chuyến đi lưới, là một loại cá hơi lạ lẫm với người thời nay. Đó là cá vồ chó (Arius sagor). Trong Thương nhớ mười hai – chương Tháng mười của Vũ Bằng, ta thấy nhắc đến loại cá này và được ông cho là: “…Có tiếng như cá thát lát, cá chạnh lá tre, cá vồ chó, cá vồ cờ…” Đó là một thứ cá da trơn sông Mekong, thân có những vạch vàng làm người đặt tên liên tưởng đến con chó vện thành thử mới gọi là vồ chó chăng? Giáp che đầu cứng nhám có nhiều hạt thô. Tấm xương gốc vi to có dạng cánh bướm, trên có nhiều hạt thô như mụn cóc. Thân thon dài, phần sau dẹp bên.
Mang một cái tên gây kiêng kỵ cho hai nhóm thực khách, cho nên thật khó mà xây dựng món cá này. Người kỵ cá tra hẳn cũng kỵ luôn cá vồ, vì đó là tên khác của cá tra, thức ăn của chúng có lẽ không khác? Kẻ không ăn thịt chó nghe đến tên con cá cũng không muốn gọi món. Nhưng đời thiếu gì người hiếu kỳ muốn thưởng thức món lạ được bác Vũ Bằng tiếp thị bằng đưa vào thương nhớ của ông. Và nó sẽ hiệu ứng ngược?